Trang Lưu Trữ Hình Ảnh
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Trang Lưu Trữ Hình Ảnh

Huế
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

 

 Những chuyện xưa

Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 8:55 am

Chuyện dạy con của người xưa

Văn hóa Thần truyền: Chuyện dạy con của người xưa

Bài của Trí Chân
[MINH HUỆ 17-11-2007] Đất nước Trung Quốc có hơn 5000 năm lịch sử, nổi tiếng thế giới là nước coi trọng “Gia giáo”. Người xưa giáo dục con cái cần phải tu thân giữ đức mới có thể “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lưu lại cho đời sau rất nhiều kinh nghiệm quý giá.
Gia Cát Lượng dạy con cần phải “Chí hướng cao xa”
Gia Cát Lượng cả đời vì nước vì dân, hy sinh lợi ích cá nhân vì việc công, để lại gương sáng cho đời sau. Ông giáo dục con cái cần có chí hướng cao xa. Năm ông 54 tuổi ông viết cho con trai lên 8 của mình là Gia Cát Chiêm bài “Giới tử thư” tổng kết kinh nghiệm cả đời của Gia Cát Lượng. Trong thư ông yêu cầu con cái của mình: “Người quân tử lấy tĩnh để tu thân, kiệm để dưỡng Đức, không đạm bạc thì không sáng chí, không tĩnh lặng thì trí không cao. Trượng phu cần tu tâm tĩnh lặng, cũng cần tu học, không học thì không thể có tài năng quảng đại, không có chí thì việc học không thể có thành tựu”. Nhắc nhở con cái muốn đạt tới tĩnh cần không ngừng tu thân và tự kiểm điểm bản thân. Muốn làm được Kiệm cần phải bồi dưỡng tài năng đức hạnh và tiết tháo cao thượng. Tâm mà không trong sáng có nhiều dục vọng thì không thể có chí hướng rõ ràng, không an định tĩnh lặng thì không thể thực hiện được lý tưởng cao xa. Để biến lý tưởng thành hiện thực cần phải không ngừng học tập tri thức, không có ý chí kiên định thì không thể nào thành công được.
Gia Cát Lượng đặt nhiều kỳ vọng to lớn ở con cái. Con cái ông sau này đều trở thành những bậc quân tử không màng danh lợi, trung nghĩa với đất nước, vì quốc gia xã tắc mà cống hiến hết mình. Đó chính là ý nghĩa và giá trị của “Tĩnh lặng” và “Trí cao”.
Dạy con “Tu thân vì nhân dân”
Khấu Chuẩn từ nhỏ đã mồ côi cha, gia cảnh nghèo khó, hoàn toàn dựa vào nghề dệt vải của mẹ mà sống qua ngày. Đêm đêm bà Khấu thường vừa kéo sợi vừa dạy Khấu Chuẩn đọc sách, đôn đốc cho Khấu Chuẩn khổ học thành tài. Sau này Khấu Chuẩn về kinh thành dự thi, đậu tiến sỹ. Tin vui truyền về tới quê nhà, trong lúc mẹ của Khấu Chuẩn đang bệnh nặng. Phút lâm chung bà giao bức họa mà mình tự vẽ cho người nhà là bà mụ họ Lưu, nói rằng: “Khấu Chuẩn ngày sau nhất định sẽ làm quan, nếu nó phạm lỗi lầm, thì bà hãy trao bức họa này cho nó!”.
Sau này Khấu Chuẩn làm Tể tướng. Một lần ông mời mấy người bạn tới nhà chúc mừng sinh nhật bản thân, chuẩn bị mở tiệc chiêu đãi các đồng liêu. Bà mụ họ Lưu cho rằng đã đúng lúc rồi, bèn lấy bức họa của bà Khấu đưa cho ông. Khấu Chuẩn xem qua, nhìn thấy một tấm “Hàn song khóa tử đồ”, trên bức vẽ đề một bài thơ:
“Cô đăng khóa độc khổ hàm tân,
vọng nhĩ tu thân vi vạn dân;
cần kiệm gia phong từ mẫu huấn,
tha niên phú quý mạc vong bần”.
Tạm dịch:
Cô độc dưới ánh đèn đọc sách bao khổ nhọc,
Mong con tu thân thành tài dốc sức vì nhân dân;
Mẹ hiền dạy dỗ gia phong cần kiệm,
Ngày phú quý giàu sang chớ quên cảnh nghèo hèn.
Bất ngờ nhận được lời di huấn của mẹ, Khấu Chuẩn đọc đi đọc lại rất nhiều lần, bất giác lệ tràn như suối. Thế là lập tức giải tán tiệc mừng thọ. Từ đó về sau ông luôn luôn giữ mình trong sạch, yêu thương nhân dân, luôn theo lẽ công bằng không vụ lợi cho bản thân, trở thành vị Tể tướng tài đức nổi tiếng thời nhà Tống.
Từ Miễn thề để tiếng thơm cho con cháu
Từ Miễn làm quan Trung thư lệnh thời nhà Lương, suốt đời có địa vị cao. Ông nghiêm khắc với bản thân, làm việc công chính mà cẩn thận, tiết kiệm không tham lam, không quan tâm đến gia sản. Bình thường những bổng lộc phần lớn đều chia cho người thân, bạn bè và những người dân nghèo khổ, bởi vậy trong nhà không có của cải gì cả. Trong số khách khứa và bạn hữu của ông có người khuyên ông nên thu vén một chút sản nghiệp để lại cho con cháu, nhưng ông trả lời rằng: “Người ta để tiền của lại cho con cháu, còn tôi để tiếng thơm lại cho con cháu. Con cháu mà có Đức có tài, chúng tự nhiên có thể sáng lập nên gia nghiệp. Còn nếu chúng không có tài đức, dẫu tôi có để lại tài sản cũng vô dụng”.
Từ Miễn thường xuyên dạy bảo con cái cần phải trọng phẩm hạnh đạo đức. Ông từng viết thư nhắc nhở con trai tên là Từ Tung, nói: “Gia thế nhà ta rất thanh liêm, cho nên cuộc sống thường ngày có kham khổ. Đến cả việc mua sắm sản nghiệp, từ trước tới nay chưa hề đề cập đến, chứ không chỉ là không kinh doanh mà thôi. Người xưa nói: ‘Để lại cho con cháu nguyên sọt vàng, không bằng dạy chúng siêng năng học tập một quyển kinh thư’. Nghiên cứu cẩn thận những lời bàn này, thực sự không phải là những lời nói suông. Mặc dù ta không có tài cán gì, nhưng có tâm nguyện, vui mừng được tuân theo lời giáo huấn này của cổ nhân, không dám bỏ dở nửa chừng. Từ lúc ta có được quyền cao chức trọng tới nay đã gần 30 năm, có một số môn khách và bằng hữu đều cực lực khuyên ta hãy thừa dịp khi có chức có quyền mà tùy cơ hành sự, mua sắm ruộng vườn để lại cho các ngươi, ta đều cự tuyệt không chấp thuận. Bởi vì ta cho rằng chỉ có để lại thứ quý giá nhất là sự thanh bạch cho đời sau, mới có thể khiến con cháu được hưởng phúc vô cùng”. Con cái của Từ Miễn về sau đều trở thành những người tài đức nổi tiếng xa gần.
Đặc điểm của giáo dục trong gia đình là lời nói và việc làm đều gương mẫu, làm người khác biến đổi một cách âm thầm. Bởi vì trẻ con có tính dễ thích nghi, cho nên việc giáo dục phẩm hạnh cho chúng càng trở nên quan trọng. Đối với những đạo lý mà chúng nhất thời không thể hiểu được, trong thực tiễn chúng dần đều sẽ tiếp xúc đến được, chỉ có hướng dẫn một cách đúng đắn mới có thể giúp chúng đi đúng con đường chính đạo. Làm cha làm mẹ, thường là muốn lấy những gì tốt đẹp nhất mà để lại cho con cái, kỳ thực bất kể là cấp cho chúng bao nhiêu tiền của đi nữa thì cũng đều là những vật ngoài thân, chỉ có giáo dục chúng trọng đức hướng Thiện, mới là thực sự lo cho tương lai lâu dài của chúng. Có như vậy mới có thể giúp chúng thu được lợi ích chân chính, bất kỳ lúc nào cũng có thể bảo trì được đầu não tỉnh táo sáng suốt, biết phân biệt rõ đúng sai, lựa chọn con đường nhân sinh đúng đắn.

nguyenhuuduong

Tổng số bài gửi: 1049
Join date: 12/08/2012

Cây Mận đắng Bên đường

Cây Mận đắng Bên đường
Vương Mậu, một người nổi tiếng của nước Ngụy thời cổ Trung Quốc.Ông thông minh tài giỏi ngay từ khi còn bé. Một lần, ông cùng với mấy bạn trẻ trong làng đi chơi xa. Nhóm trẻ vì bận học nên ít có dịp được đi đây đi đó, đến những nơi cảnh đẹp nhưng heo hút, vắng bóng con người, khí hậu mùa hè oi bức rất khó chịu, cả nhóm chơi mãi đến lúc khát khô cả họng không chịu được nữa, liền bảo nhau tìm thứ gì có thể tạm thời giải khát. Người thì đi tìm hàng quán, người thì đi tìm nguồn nước, xem quanh vùng có cái giếng hay con suối có nước có thể uống được hay không? Bất chợt, một anh bạn tinh mắt, phát hiện thấy bên đường có cây mận to, trên cành trĩu quả. Anh ta hồ hởi gọi mọi người chạy nhanh ra hái mận ăn cho đỡ khát. Mọi người chạy đến chỗ cây mận. Mới nhìn thấy cây mận to trĩu quả đã chảy cả nước miếng, tin rằng sẽ được ăn một bụng cho đỡ khát.

Chỉ riêng một mình Vương Mậu đứng im không nhúc nhích, bạn bè liền gọi hỏi: “ Này Vương Mậu, sao không chạy lại đây, ăn mấy quả mận cho đỡ khát? Đứng đực ra đấy làm gì vậy?”

Vương Mậu bình thản trả lời: “ Tùy các cậu ! Nhưng đó là cây mận đắng làm sao ăn được?” Một lúc sau, các bạn chạy trở về, miệng phun phì phì, tay còn cầm mấy quả to nhưng không ăn, nói với Vương Mậu “ Mận này quả thực đắng quá không làm sao nuốt nổi ! Cậu có muốn ăn thử không?” Vương Mậu cứ lắc đầu hoài.

Một anh bạn nhìn Vương Mậu , hỏi : “ Này Vương Mậu ! Hình như cậu đã đến qua vùng này hay sao mà biết đây là cây mận đắng không ăn được?” Vương Mậu thật thà nói : “ Không, mình chưa đến vùng này lần nào. Nhưng các cậu thử nghĩ xem, một cây mận to và sai quả như thế mọc bên vệ đường, lại vô chủ, nếu là cây mận ngon ăn được, thì còn nhiều quả như vậy nữa không, hay là bị người ta vặt trụi ngay từ lúc hãy còn xanh? Đâu còn đợi đến các bạn nữa? Vì thế mình mới nghĩ đó là cây mận đắng, nên không việc gì phải chạy đi hái cho phí sức.

Vợ xấu

Vợ Hứa Doãn là Nguyễn thị nhan sắc rất kém. Khi Hứa Doãn mới lấy về, làm lễ cưới xong, trông thấy vợ xấu, muốn bỏ đi ngay, bèn hỏi Nguyễn thị.

Đàn bà có “ tứ đức”, nàng được mấy đức?

Nguyễn thị thưa:

Thiếp đây chỉ kém có “ dung” mà thôi. Rồi bèn hỏi:

Kẻ sĩ có “ bách hạnh”, xin hỏi chàng được mấy hạnh?

Hứa Doãn đáp:

Ta đây có đủ cả bách hạnh.

Nguyễn thị nói:

Bách hạnh thì “ Đức” làm đầu, chàng là người hiếu sắc, chẳng hiếu đức, sao lại nói là có đủ bách hạnh?

Hứa Doãn nghe nói hiếu sắc thì thẹn. Từ bấy giờ, hai vợ chồng thương yêu, kính trọng nhau suốt đời.

Tục ngữ Việt Nam phản ánh vai trò Đồng Tiền trong xã hội
Tháng Mười Một 13, 2012 By tudienthanhngu 0 Comments


Rating: 3.8/5 (4 votes cast)
Tục ngữ là túi khôn của nhân loại. Có rất nhiều câu tục ngữ nói về thứ quyền lực xã hội là đồng tiền. Những câu tục ngữ nói về tiền đề cập những vấn đề phức tạp liên quan tới tiền, những vấn đề xã hội xung quanh tiền và các cách thức kiếm tiền. Về phương diện nào đó thì tiền, của, vàng bạc là đồng nghĩa với nhau. Có thể bình luận nhiều điều sâu xa về những điều mà các câu tục ngữ hàm ý, từ những tri thức mà tục ngữ đã đề cập tới những hoàn cảnh và điều kiện tri thức đó được ứng dụng trong thực tiễn. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ nêu những điều cảm nhận trực tiếp về tiền mà các câu tục ngữ đem lại.

a. Sức mạnh xã hội phi thường

Người Việt có câu tục ngữ rằng để chỉ ra sức mạnh vô song mang tính phổ quát của đồng tiền. Tiền là một sức mạnh xã hội phi thường. Đồng tiền là thứ đáng được ngợi ca. Đồng tiền có sức mạnh xuyên thời gian, xuyên qua cả các kiếp người, và đối với đồng tiền thì cuộc sống con người thật là phù du: “Đồng tiền là chúa muôn loài, Người ta là khách vãng lai một thời”.

Đống tiền có sức mạnh lấn át các sức mạnh xã hội khác: “Hạt tiêu nó bé nó cay, đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền”. Đồng tiền có sức mạnh phi thường đến mức huyền bí: “Của vua có thần, của dân có ma”, “Của nhà giàu có nọc”. Không thể ăn không ăn cướp của người ta dễ dàng: “Có ơn phải sợ, có nợ phải trả”.

Để có thể thâm nhập được vào các cộng đồng khác, trong đó có những phong tục tập quán khác, ngoài việc dùng tình cảm thì người ta cần có những phương tiện hỗ trợ, mà được mọi người vui lòng chấp nhận: “Có của thì có mẹ nàng, có bạc có vàng thì có kẻ ưa”, “Anh em gạo, đạo ngãi tiền”.

Tiền là một thứ đem lại rất nhiều điều tốt đẹp, mang lại sự lịch sự và sự vẻ vang cho người có tiền: “Chẳng gì tươi tốt bằng vàng, chẳng gì lịch sự vẻ vang bằng tiền”.

Tiền có được sự trao đổi vạn năng: “Có tiền mua tiên cũng được”, “Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”. Tiền dùng để mua của cải vật chất, và mua được cả những thứ tinh thần, như để mua danh: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”.

Tiền mang lại cho người ta khả năng giải trí phi thường: “Nhất chơi tiên, nhì giỡn tiền”.

Có tiền thì có nhiều người cầu cạnh, sẵn lòng hầu hạ: “Có tiền chán vạn người hầu, có bấc có dầu chán vạn kẻ khêu”. Khi có tiền, người ta có những tư thế và khả năng suy nghĩ mới, vì có tiền thì người ta có khả năng huy động trí tuệ của những người khác. Có tiền làm cho người ta trở nên khôn: “Có tiền thì khôn như rái, không tiền dại như vích”. Tiền cho phép người ta ăn nói thoải mái: “Tay mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá người nghe ầm ầm”, cho phép người ta làm được một số điều vượt khỏi chuẩn mực: “Lấy đồng tiền làm láo”.

Đồng tiền là thứ thiết thân với người ta: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Thái độ đối với đồng tiền: “Khó giữ đầu, giàu giữ của”.

Lắm tiền nhiều bạc đem lại sự viên mãn trong cuộc sống: “Lắm tiền nhiều bạc là tiên trên đời”. Nhiều tiền sẽ gặp được thuận lợi trong việc mua bán: “Nhiều tiền đong đầy, ít tiền đong vơi”, làm được những việc có chất lượng cao: “Nhiều tiền thiên niên vạn đại, ít tiền làm lại làm đi”, có được của tốt: “Nhiều tiền của tốt, ít tiền của xấu”, làm được những điều lâu bền, đặc biệt là trong quan hệ giữa người với người: “Nhiều tiền thì thắm, ít tiền thì phai”, và nhiều tiền sẽ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc làm giàu, trong việc thiết tạo nên cơ đồ: “Nhiều ăn lãi, ít bán vốn”.

Khi có tiền có của, người ta làm được rất nhiều việc như dò được người, biết được người “Có của dò được người”, tác động được tới người khác, đưa người khác vào vòng ảnh hưởng: “Có của dỗ được người”.

Người có của thì lấy của để giải quyết các việc lo lắng đến sức khoẻ, dùng tiền để đi khám bệnh, dưỡng da, còn người không có của thì sẵn sàng hy sinh bản thân để có được của: “Có của lấy của che thân, không của lấy thân che của”. Người có của thì lấy của để chạy tội, chạy chức, chạy ghế, chạy tuổi, và làm những điều để thân mình có thể được vẻ vang, mình có thể đạt được địa vị, và nếu có chuyện với vòng lao lý thì có thể dùng tiền chạy tội: “Của đi thay người”.

Đồng tiền là công cụ rất thuận tiện, kín đáo, để hối lộ: “Của ngon đưa đến miệng ai từ”.

Tiền phá hoại luật lệ: “Kim ngân phá luật lệ”, có cách thức làm thay đổi sự thật: “Năm tiền có chứng, một quan có cớ”. Đồng tiền làm người ta thay đổi ý kiến, thay đổi suy nghĩ, thay đổi tình cảm, và làm thay đổi hành động.

Đồng tiền có sức mạnh vạn năng trong việc ra quyết định của các loại văn bản có giá trị pháp lý: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”.

Tiền làm cho nhiều vấn đề nảy sinh với người có tiền: Có tiền đem lại cho người có tiền những hiểm hoạ, làm người ta không còn giữ được những nết tốt: “Của làm hư nết”. Khi giàu tiền tài thì lại có những vấn đề liên quan tới nhân nghĩa: “Giàu tiền tài, nhân nghĩa tận”.

Không những thế, tiền làm hại người, hoặc làm cho người có tiền bị hại, hoặc là vì những lý do nội tại, hoặc là tai hoạ do người khác đưa đến như cướp giật, kiện tụng. Có đồng tiền trong tay thì cũng là nguyên cớ để rước hoạ vào thân. “Của làm hại người”

Tiền chia rẽ các cộng đồng, thậm chí tiền phá vỡ các cộng đồng. “Chị em hiền thật là hiền, lâm đến đồng tiền mất cả chị em”.

Tiền là một công cụ có công dụng thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công việc. Một khi có việc và có tiền để làm việc đó thì người ta sẽ nhanh chóng tìm được những người có khả năng, có quyền lực tháo gỡ, được các vướng mắc cản trở để làm được việc đó. “Tiền đến đâu mau đến đấy”.

Đồng tiền được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Đồng tiền tạo nên những điều tốt đẹp, xây dựng lên những điều tốt đẹp, nhưng nó cũng tạo nên cái xấu, phá hoại chia rẽ cộng đồng, xã hội. Có những mối quan hệ mà các bên liên quan cùng sử dụng tiền cho những mục đích mâu thuẫn nhau thì điều gì sẽ xảy ra?

Đồng tiền làm thay đổi các chuẩn mực, tạo nên hình thái mới trong quan hệ xã hội, đặc biệt trong những tình huống có mâu thuẫn. Đồng tiền làm cho người ta thay đổi đạo đức, sẵn lòng phục vụ cho những người khác vượt qua lòng biết ơn: “Trăm ơn không bằng hơn tiền”.

Không có tiền thì sao? Khi không có tiền thì không thể đem lại tư cách trong việc nói năng: “Tay không nói chẳng nên điều”.

b. Hạn chế của tiền

Đồng tiền có những công dụng rất tốt để người ta làm được những việc lớn, thiết lập nên những mối quan hệ, nhưng đồng thời tiền bạc cũng ẩn chứa những điều tồi tệ trong xã hội, là nguyên nhân của những bất hoà trong gia đình, của những tội lỗi trong xã hội.

Nhưng trong tục ngữ không thấy nói đến có tiền mua được quyền lực, mua được địa vị, vì thực ra không tiền nào mua được quyền lực, vì dưới chế độ phong kiến, đẳng cấp xã hội là “Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ cổ (thương)”, mà muốn làm quan thì phải qua con đường khoa bảng, mà chuyện thi cử thường được triều đình quản rất chặt, tổ chức nghiêm túc, chặt chẽ mà lên tới thi Hội, thi Đình thì không thể dối trá được. Hơn thế nữa, đã làm quan mà không thanh liêm thì có thể vơ vét rất nhiều. Lời nói, quyết định của những người có quyền có chức đem lại nhiều tiền bạc cho các đối tượng nhất định: “Lời nói, gói vàng”, “Lời nói quan tiền tấm lụa”.

Một khi có chữ thì người ta sẽ có khả năng đỗ đạt, làm quan và chức vụ đó có nhiều bổng lộc mà không hoạt động kinh tế nào mang lại được: “Một rương vàng không bằng một nang chữ”, “Một kho vàng không bằng một nang chữ”

Do nhà nước phong kiến ngăn cản sự tập trung tư bản, ngăn cản các tổ chức bí mật của giới thương nhân có thể kéo dài tầm hoạt động của nó ra nhiều thế hệ nên: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”.

Có những thứ quý hơn tiền bạc, đặc biệt là trong những mối quan hệ giữa người với người. Trong đó có những thứ người ta coi trọng hơn là tiền bạc: “Giàu tiền giàu bạc không bằng giàu bạn giàu bè”.

Những thời buổi ly loạn, những cuộc tranh giành quyền lực thì tiền bạc vừa là công cụ để phòng thân. Khi tính mạng bị de doạ do bệnh tật hay do nguyên nhân khác, thì người ta sẵn sàng bỏ tiền của ra để cứu lấy sinh mạng của mình: “Người sống hơn đống vàng”.

Khi giàu có mà không có nhân thì lúc túng thiếu sẽ không có nghĩa: “Phú bất nhân, bần bất nghĩa”.

c. Tiêu tiền

Trong một xã hội nông nghiệp, dù có tự cung tự cấp, đóng kín với nhau thì luôn luôn có chỗ để đồng tiền xuất hiện. Có việc, có nhu cầu thì phải tiêu tiền. Không mất tiền lúc này thì phải mất tiền vào lúc khác: “Hà tiện cúng bụt thì phải cúng ma”.

Đồng tiền đòi hỏi phải có cách sử dụng đặc thù, tuỳ việc mà tiêu tiền: “Việc to đừng lo tốn”, “Tuỳ tiền biện lễ”, “Tiền nào của nấy”. “Chợ có phiên, tiền có ngữ”. Có khi chi tiêu về việc này thì lại phải chi tiền cho những thứ có liên quan: “Một đồng tiền gà, ba đồng tiền thóc”.

Có nhiều vấn đề tế nhị, đáng bàn trong việc tiêu tiền. Nhưng một khi dùng đến tiền để bổ trợ cho mối quan hệ thông cảm, đánh giá được sự khó nhọc giúp đỡ lẫn nhau thì người ta có một chút bồi dưỡng, một chút giúp đỡ nhau qua cơn hoạn nạn, qua lúc bối rối, như vậy người ta cần phải đi theo những thời điểm nhất định, vì thời điểm đưa tiền rất quan trọng. Không phải lúc nào đồng tiền cũng có vai trò như nhau. Những nơi nào đồng tiền phải có mặt, đồng tiền phải đi trước. Người ta thấy rằng “Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn, đồng tiền đi sau đồng tiền dại”, như vậy phải để đến lúc muộn rồi thì người ta không còn gặp thuận lợi nữa, không còn để tình hình có thể kiểm soát được nữa. Khi có đồng tiền đi trước, người ta sẽ có những biện pháp can thiệp vào tình hình, bẻ ngoặt tiến trình của sự việc đem lại lợi ích cho người bỏ tiền ra, như làm sai lệch tính chất của sự việc. Tiền là cái đầu tiên, là tiền đề để mọi chuyện có thể đi vào quy củ, để thiết lập lại kỷ cương. Không có chuyện phân minh về tiền bạc thì không thể nói đến việc thiết lập kỷ luật, thiết lập tiến trình phát triển. Không đủ nguồn lực về tiền thì không thể làm nên được những công việc tiến triển có quy củ được đem lại lợi ích nào đó cho người có tiền: “Tiền bạc đi trước, mực thước theo sau” Khi đã thoả thuận được về tiền bạc thì mới nói đến công việc tiến hành theo đúng các quy tắc, thủ tục đã được thiết lập. Còn nếu không thì người ta sẽ để tiến trình đem đến bất lợi cho người chưa bỏ tiền ra mà có khi phải mất rất nhiều tiền. Công việc sẽ gặp những nhùng nhằng, tiến triển theo hướng bất lợi cho người chưa bỏ tiền.

d. Động thái của đồng tiền

Đồng tiền có sức mạnh rất to lớn và nó là công cụ rất tốt để người ta thực hiện được các mục đích của mình, để được việc cho mình. Vì thế đồng tiền là mục theo đuổi của xã hội, và mỗi người ở vị thế của mình tác động đến động thái của dòng tiền nào đó. Dù sống trong chế độ tự cung tự cấp thì việc phát triển con người như học hành, thi cử, hay các việc kiện tụng, phân chia tài sản đều phải cần đến tiền. Đồng tiền đi từ những nơi có việc đến nơi giải quyết việc, từ nơi có nhu cầu đến nơi cung cấp nhu cầu.

Đồng tiền luôn luôn lưu thông, luôn luôn vận động, và trong tiến trình đó, nó phải đem lại lợi ích cho người có tiền: “Tiền trong nhà tiền chửa, tiền ra cửa tiền đẻ”. Tiền sẽ làm cho có tiền nhiều hơn nữa: “Tiền đẻ ra tiền”

Trong xã hội có người giàu người nghèo. Mối quan hệ tiền bạc giữa những người giàu với nhau và giữa người giàu và người nghèo như thế nào? “Tiền của về nhà giàu”. Người có tiền nhiều sẽ bòn rút tiền từ người ít tiền: “Khố son bòn khố nâu”. Người ta bòn rút nơi này để dâng lại cho nơi khác: “Bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng”.

Trong quan hệ dân sự, có những mối quan hệ có thể bòn rút được: “Của mình thì để, của rể thì bòn”

Có tiền thì cũng cần phải có người tin cẩn để giao phó, mà việc đó phải qua thử thách, qua sự nhạy cảm mới chọn được: “Chọn mặt gửi vàng”, “Chọn người gửi của”.

Người giàu là đối tượng mà nhiều thành phần trong xã hội quan tâm đến, mà thông thường với những dụng ý không tốt, từ nhờ vả, đến vay mượn, xin xỏ nên không phải lúc nào người ta cũng muốn phô trương: “Giấu giàu, không ai giấu được nghèo”.

Thái độ đối với các loại của cải phải là thái độ cầu thị, trân trọng, rất cần thiết phải có thái độ đúng đắn về tiền của: “Hay của nào, chào của ấy”, “Của làm ăn no, của cho ăn thêm”.

Người ta sẵn sàng bỏ tiền ra để đầu tư với hy vọng sẽ thu tiền về nhiều hơn: “Đồng một của người, đồng mười của ta”. Làm cho người ta giàu lên thì mọi điều sẽ dễ dàng thoái mái, nhưng làm cho người ta nghèo đi thì sẽ gặp phản ứng dữ dội: “Giàu thì dễ ngươi, khó thì nói láo”.

e. Kiếm tiền

Do có những sức mạnh phi thường nên đồng tiền có sức cám dỗ rất mãnh liệt. Người ta tìm mọi cách để có tiền. Tiền ở trong túi người khác khiến cho nhiều người sẵn lòng đáp ứng nhiều nhu cầu, thậm chí là những nhu cầu quái đản, của người có nhiều tiền.

Người ta hiểu rằng người đời có trăm phương ngàn kế để kiếm tiền, và rằng nếu mình có tiền thì mình trở thành đối tượng để người khác tranh thủ, lợi dụng, hay là tìm cách dựa vào mình để mưu đồ lợi ích cá nhân.

Đồng tiền quan trọng như vậy thì người ta cần có tiền, có tiền thì mới có được những cách thức thu được nhân tâm trong những cộng đồng hình thành có điều kiện, thu được mối quan hệ với những người có chức có quyền.

Khi người ta làm được sản phẩm nào đó đáp ứng nhu cầu cho người khác thì người ta kiếm được tiền: “Của giữa chợ, ai thích thì mua”. Việc kiếm tiền luôn luôn thay đổi. Phải biết cách kiếm tiền ở nhiều nơi, có như vậy mới kiếm được nhiều tiền: “Khôn ngoan kiếm ăn xứ người, mạt đời thì kiếm ăn quanh”.

Có những điều trong xã hội mà ai cũng hiểu rằng đã dính vào thì phải mất tiền: “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”.

Khi có những gì có thể đem lại được tiền thì có những kẻ tìm cách xoay xở: “Chợ chưa họp, kẻ cắp đã đến”.

Có những nơi mà dòng tiền tự động chuyển tới, không làm gì mà tiền cũng tự tìm đến, có những chỗ, những địa vị đương nhiên có tiền. Đó là các nơi có quyền thu tiền, có quyền chi tiêu, có quyền tiêu tiền. Đó là những người có chức vụ, liên quan đến những công việc quyền lực của nhà nước, từ hành pháp, tư pháp và luật lệ. Có những chức vụ, địa vị mà người ta phải cống nộp: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Quyền lực có khả năng phi thường thu hút tiền bạc vào túi cá nhân, và người có quyền lực có cách tác động đến người khác để kiếm tiền: “Có tiền nới cùm, không tiền niêm chặt”.

Có những chỗ có thể gây khó dễ cho người khác. Không có tiền thì sẽ có những chuyện không xong, mọi việc đều khó khăn: “Không đấm mõm thì chẳng xong”. Có những chuyện đấm mõm cũng không xong, chỉ có những trường hợp nhất định mới có chuyện đấm mõm thành công.

Những thế lực có sức mạnh ngăn cản sự lưu thông của các hàng hoá, như các cơ quan công quyền, đem lại khả năng thu nhập cho cá nhân có quyền lực hay các loại tội phạm: “Tuần hà là cha kẻ cướp”.

Sự bòn rút có nhiều tầng nhiều mức: “Quan tha nha bắt”. Thày tham nhũng thì chọn tớ cũng biết cách gợi ý, doạ nạt, moi tiền của thiên hạ “Thày nào, tớ nấy”.

Vì thế trong xã hội có những người có thể “Ngồi mát ăn bát vàng” có nghĩa là ngồi mát ăn được cả số lượng vàng đổ đầy một cái bát, chứ không phải ăn cơm bằng cái bát bằng vàng như người ta vẫn tưởng, đó là những người được cống nạp, và sự cống nạp có nhiều tầng mức.

Trong các mối quan hệ xã hội, không dễ ăn tiền của người khác. Việc ăn tiền phải kín đáo, và có những biện pháp che giấu, đi đêm với nhau, vì khi việc đó bại lộ ra thì sẽ đưa lại tai hoạ cho cả người đưa lẫn người nhận. Đồng tiền có tác dụng làm người ta gắn bó, ràng buộc với nhau: “Há miệng mắc quai”.

Đồng tiền có thể đưa một loại người nhất định vào vòng ảnh hưởng: “Tham ăn thì mắc bẫy”. Nhưng ăn lắm không dễ nuốt, vì sẽ có rất nhiều vấn đề “Ngủ lắm thì lắm chiêm bao, ăn lắm ỉa lắm cứt cao hơn đầu”. Hơn thế nữa: “Tham thực cực thân”

Có những người có phẩm chất được hưởng các loại của cải của xã hội: “Của thế gian đãi người ngoan thiên hạ”.

Kiếm tiền bằng cách dựa vào địa vị thì không được xếp vào làm giàu, vì: “Của dễ được thì dễ mất”, và “Miệng ăn, núi lở”, “Của đời ông ăn không cũng hết”.

g. Làm giàu

Làm giàu là làm cho trở nên có nhiều tiền bạc, của cải. Để làm giàu được thì cần có phẩm chất tinh thần đặc biệt: “Có chí làm quan, có gan làm giàu”. Chí là ý muốn bền bỉ theo đuổi một việc gì đó tốt đẹp. Gan ở đây là được coi là biểu tượng của tinh thần, ý chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn, dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng. Làm giàu là công việc phải đương đầu với nhiều rủi ro, với nhiều nguy hiểm, nhưng “Có chí có gan, gian nan vượt tuốt”.

Làm giàu là điều khó khăn nên nhiều khi người ta coi rằng đó là việc phải có một thế lực cao siêu hơn chi phối: “Khó giàu muôn sự tại trời, nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi”.

Buôn là mua bán để lấy lãi nhưng không phải lúc nào cũng đi buôn được. Khi có thiên tai, địch hoạ, trộm cướp thì không thể đi buôn được: “Đi buôn có số, làm ruộng có mùa”. Việc kiếm tiền không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió: “Đất có tuần, dân có vận”. Người ta phải gặp thời, người ta gặp cơn nên thì mới thành đạt được. Khi gặp thời thì động thái khác với khi hết thời. Khi người ta gặp thời, đồng tiền đến thật dễ dàng: “Cơn nên phung phá cũng nên, cơn suy dẫu khéo giữ gìn cũng suy”. Nhưng khi người ta hết thời thì đồng tiền đến thật khó khăn: “Gặp thời thì nổi hoà huênh, hết thời thì lại nổi lênh như bèo”.

Thấy được người ta làm giàu như thế nào, nhưng bản thân mình thì lại không làm giàu được do những hạn chế của chính mình: “Của trời vạn, ngắn tay không với đến”

Làm giàu là việc khó khăn mà người ta không muốn trao cho ai, chỉ bảo cho ai. Việc cho vàng còn hơn là chỉ ra cách thức làm giàu, vì trong cách thức làm giàu có nhiều bí mật trong quan hệ với nhân viên công lực như việc hối lộ, cần phải thiết lập nên các mối quan hệ kín đáo mà thực chất là làm những việc mà nhà nước nào cũng cấm, hơn thế nữa lại tạo nên những đối thủ cạnh tranh trong một thị trường hạn hẹp mà đem lại nguy cơ cho mình. “Cho nhau vàng không bằng chỉ đàng đi buôn”.

Giàu có hôm nay không hứa hẹn gì sẽ giàu có trong tương lai: “Giàu ba mươi tuổi chớ mừng, khó ba mươi tuổi em đừng vội lo”. Khoảng cách từ sự giàu có đến sự nghèo khó rất gần: “Giàu không hà tiện khó liền tay, khó không hà tiện khó ăn mày”.

Một khi đã giàu thì có điều kiện để giàu thêm: “Đã giàu thì lại giàu thêm, đã khó lại khó cả đêm lẫn ngày”.

Có nhiều cách để làm giàu. Người thì tiết kiệm để làm giàu: “Hà tiện mới giàu, cơ cầu mới có”, người thì thô bạo đến mức tàn nhẫn: “Hà tiện mới có, phũ như chó mới giàu”. Người thì phải hay làm: “Hay làm thì giàu, hay cầu thì nghèo”, người thì có ý dối trá, lừa lọc để thực hiện hoặc che giấu việc làm bất lương: “Khôn nên quan, gian nên giàu”

Công việc để làm giàu phổ biến là: “Muốn giàu thì buôn bè, muốn què tập vật”. Công việc làm giàu không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, mà có những lúc gặp vận hạn, thất cơ lỡ vận và cần được sự giúp đỡ của bạn bè. Công việc kiếm tiền không phải cá nhân làm được mà cần có những cộng đồng, cần có tập thể. “Buôn có bạn, bán có phường”, “Có đắt hàng tôi mới trôi hàng bà”

Làm giàu phải có cộng đồng, nương tựa vào nhau khi có khó khăn, có như vậy mới có thể mới qua được vận hạn. “Giàu về bạn, sang về vợ”, nhưng đã làm bạn với nhau thì phải chấp nhận “Có đi có lại mới toại lòng nhau” và phải chịu thiệt về mình “Làm ơn nên oán, làm bạn thiệt mình”, và khi thân thiết với nhau thì “Có thân thì phải khổ, có khổ mới nên thân”.

Không dễ gì có được cách làm giàu. Điều đó đòi hỏi người ta phải học hỏi nỗ lực: “Muốn lành nghề, chớ nề học hỏi”

Muốn làm giàu thì phải có điều kiện: “Có vốn rồi mới có lãi”. Không phải ai cũng có thể có vốn liếng ngay, mà phải vay mượn để làm giàu: “Hết nợ, làm giàu”

Kiếm đồng tiền thật là vất vả, nhưng sẽ đến lúc sự vất vả đó sẽ được bù đắp: “Người đời ai khỏi gian nan, gian nan có thuở, thanh nhàn có khi”. Khi đã giàu rồi, người ta sẽ có điều kiện sống một cuộc sống sung túc về vật chất: “Giàu tậu, khó bán”.

Những câu tục ngữ không nói đến đồng tiền trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hướng tới một xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là sự hạn chế của tục ngữ trong việc nói đến tiền.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:02 am

Đừng Hành Động Gì Khi Đang Nóng Giận

Những chuyện xưa Samourai

Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá.Người đánh cá nói : « Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài ». Vị Samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói : « Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận ».
Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. « Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi ».
Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai : « Đừng hành động khi đang giận dữ ». Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.
Ông gào lên : « Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi ! ».
Vợ ông giải thích : « Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng ».
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. « Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa », người đánh cá phấn khởi nói.
« Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi ». Vị Samurai trả lời, « Ngươi đã trả nợ rồi ».
Trích William Ury, Lời Từ Chối Hoàn Hảo

3 ý nguyện của Alexander Đại Đế

Alexandros Đại Đế
Vua của Macedonia, Chúa tể của Liên minh Hy Lạp,Shahanshah của Ba Tư, Pharaoh của Ai Cập và Vua của châu Á (chi tiết...)

Vua Alexandros Đại đế thân chinh đánh vua Ba Tư là Darius III. Lấy từ thảm Alexandros, Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Napoli.


3 ý nguyện của Alexander Đại Đế


Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng:
1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.
2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ...
3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế.
Ngài Alexander đã giải thích như sau:
1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu chữa.
2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời).
3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.
( Quyền chuyển )
Những chuyện xưa 300px-BattleofIssus333BC-mosaic-detail1

Câu chuyện con lừa.

Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại sảy chân rơi xuống một cái giếng. Lừa kêu la tội nghiệp hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì. Cuối cùng ông quyết định: con lừa đã già, dù sao thì cái giếng cũng cần được lấp lại và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả. Ông nhờ vài người hàng xóm sang giúp mình. Họ xúc đất và đổ vào giếng. Ngay từ đầu, lừa đã hiểu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết. Nhưng sau đó lừa trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và vô cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống và bước chân lên trên. Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước lên cao hơn. Chỉ một lúc sau mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài.
Cuộc sống sẽ đổ rất nhiều thứ khó chịu lên người bạn. Hãy xem mỗi vấn đề bạn gặp phải là một hòn đá để bạn bước lên cao hơn. Chúng ta có thể thoát khỏi cái giếng sâu nhất chỉ đơn giản bằng cách đừng bao giờ đầu hàng.

Những chuyện xưa Natividad
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:10 am

Ngày 21 tháng 01 năm 2014
EM CHỈ CẦN TIỀN !




Những chuyện xưa Images+(14)









“Anh sẽ về, nhất định em phải đợi anh nhé”, Anh ôm chặt lấy cô vào lòng, hôn lên tóc cô và thì thầm nói.




Nép vào ngực anh, cô lặng lẽ gật đầu, bao nhiêu điều muốn nói nhưng không thể nói ra. Nước mắt cô lăn dài trên má.




Vậy là chỉ cần trời sáng, chỉ cần đồng hồ cất lên 9 tiếng chuông lạnh lùng, anh sẽ xa cô và chẳng để lại cho cô điều gì ngoài một chữ “đợi”.




Anh, con nhà giàu, đẹp trai, sự nghiệp sáng lạn được biết bao người ngưỡng mộ. Cô, chỉ là một đứa trẻ mồ côi, tứ cố vô thân không nơi nương tựa, tương lai của cô chỉ có thể dựa vào tấm bằng đại học còn chưa lấy được. Đương nhiên chuyện tình của họ cũng như bao chuyện tình không môn đăng hộ đối khác. Gia đình anh, bạn bè anh phản đối và nhìn cô với ánh mắt khinh thường. Khinh thường một con nhỏ trèo cao không biết thân phận.




Nhưng tình yêu có bao giờ chịu thua số phận, anh bất chấp tất cả để ở bên cô, sống với cô. Cô đã từng hạnh phúc, đã từng mơ và rồi giấc mơ ấy cũng tan vỡ. Bố mẹ anh dùng đủ mọi cách bắt anh ra nước ngoài, thậm chí là đe dọa anh bằng cả mạng sống của họ.




Anh đầu hàng số phận và ra đi. Cô không trách, cũng không thể trách điều gì cả, nếu giữa tình yêu và bố mẹ thứ anh chỉ có thể mất là tình yêu.




Nhìn bóng lưng anh đi xa dần, cô khuỵu xuống đất, nấc lên không thành tiếng. Chỗ dựa duy nhất của cô, người thân yêu duy nhất của cô đã đi. Giờ đây cô lại chỉ có một mình.




***




4 năm, đối với một số người trôi qua thật nhanh, nhưng đối với anh đó là quãng thời gian dài dường như vô tận. Bốn năm, giờ đây anh đã có được tất cả những gì mà một con người thành đạt cần có. Nhưng tình yêu của anh thì đã mất và có thể mãi mãi không thể tìm lại được.




Khi anh đi cô đã hứa sẽ đợi anh, vậy mà tất cả những gì cô có thể làm là bặt vô âm tín rồi chỉ sau 2 năm anh nghe tin cô lấy chồng. Một người chồng giàu có, lớn tuổi và có thể cho cô tất cả những gì cô muốn. Anh đã không muốn tin nhưng không thể liên lạc với cô để hỏi rõ mọi chuyện. Anh đau khổ, dằn vặt, chờ đợi, cho tới một ngày một tấm thiệp cưới được gởi tới cho anh và tên cô nghiễm nhiên nằm trên đó. Anh đã tin và bắt đầu chấp nhận. Giờ đây khi quay trở lại, mong ước duy nhất của anh là tìm cô để nhìn thấy cô thật sự hạnh phúc…. Và đó cũng là lần cuối anh muốn gặp cô.




***




Khi những chiếc lá đã bắt đầu ngả màu vàng, khi mà thời tiết đã bắt đầu trở lạnh, cô vội vã khoác lên mình chiếc áo ấm dày, với tay kéo chiếc mũ sụp xuống che đi gương mặt mình.




Cô nhanh tay vơ lấy những tờ tiền vươn vãi trên tấm ga giường nhàu nhĩ và bước vội ra khỏi khách sạn. Cô cứ cúi mặt đi, đi rất nhanh như để lẩn trốn ánh mắt dè bỉu của mọi người. Cũng có thể chẳng ai nhìn cô đâu, nhưng một khi đã sai trái thì cảm giác bị người khác khinh rẻ luôn bám theo mình. Vô tình, lúc cô bước đi, một người nhìn thấy cô và sửng sờ làm rơi chiếc cốc rượu trong tay.




Anh đứng phắt dậy, đẩy bàn và chạy theo bóng dáng người phụ nữ kia. Có thể cách ăn mặc, trang điểm lòe loẹt và chiếc mũ che đi gần hết khuôn mặt nhưng với anh, hình ảnh của cô đã in đậm trong kí ức nên không thể nào anh không nhận ra cô. Chạy nhưng điên cuồng về phía trước, anh thấy cô đứng lặng lẽ bên cột đèn đường, ánh đèn hắt lên người cô một cách mờ ảo. Anh định chạy tới níu lấy tay cô nhưng rồi một chiếc xe sang trọng trờ tới, cô bước lên xe một cách lạnh lùng và khi chạy lướt qua anh, anh thấy người đàn ông trên xe bắt đầu nhào tới kéo áo cô như một con thú, điên cuồng. Chết lặng…. đây đâu phải là viễn cảnh anh từng nghĩ tới.




Người chồng của cô kia ư ? hạnh phúc của cô là kia ư ? vậy cô đến khách sạn để làm gì ? Bao nhiêu câu hỏi dằn vặt anh, bao nhiêu nghi ngờ dồn nén trong anh bộc phát khiến anh không sao trả lời cho chính mình được.




Cầm trên tay những tờ tiền xanh nhạt cô nhẹ nhàng vuốt thẳng nó một cách cẩn thận và yêu chiều. Với một số người đây là đồng tiền bẩn thỉu nhưng với cô đây là tất cả những hi vọng cô có thể gom lại để mua lấy một hạnh phúc mong manh.




Với anh, anh cầm xấp giấy được thám tử đưa cho mình, nhìn gương mặt cô hiện rõ trên tờ giấy phẳng phiu đó ... Anh bỗng thấy lợm người, tờ giấy trắng trong tay, khuôn mặt tươi cười của cô khiến anh cảm thấy thật buồn nôn. Thì ra đây chính là con đường cô đã chọn, nhơ nhớp và đáng khinh làm sao.




Cô vẫn đứng lặng lẽ trên vỉa hè để chờ người khách tối nay. Chiếc váy đỏ nhẹ nhàng ôm lấy cô làm cô thật nổi bật, vẻ nổi bật đó được đổi lại nhờ ánh mắt soi mói của người đi đường. Khẽ nhếch môi, chính cô còn khinh mình nữa là…. Nụ cười của cô chợt tắt ngấm khi nhìn người đang đứng trước mặt mình.




Anh nhìn cô bằng ánh mắt lạnh lẽo tăm tối nhất. Trong trí nhớ của cô anh luôn nhìn cô ấm áp và dường như hiểu ra mọi chuyện cô bất ngờ cười lớn, cười thật to nhưng đuôi mắt đã ươn ướt từ lúc nào. Nắm tay cô kéo lên xe, anh lái như điên tới một nơi vắng vẻ….




Sau giây phút yên lặng để anh và cô nhìn nhau, tìm ở nhau những điểm gì thay đổi sau từng ấy năm xa cách và thoáng giật mình khi cả hai cùng nhận ra rằng anh vẫn vậy nhưng cô đã thay đổi gần như hoàn toàn.




“Anh nghe nói em đã lấy chồng, vậy chồng em đâu?” anh lạnh lùng nhìn cô rồi cất giọng.




“Em thì nghe nói anh đã lấy vợ, vậy vợ anh đâu mà để anh đi tìm ‘gái’ thế này?” cô nheo mắt hỏi ngược lại anh. Anh sửng sờ nhìn cô. Trò đùa gì thế này?




Nhíu mày nhìn cô, anh không thể thốt lên một lời nào cả. Thì ra có những việc, mọi người sắp đặt thật là khéo, thật là hay…. Dù đó là hiểu lầm nhưng nhìn cô lúc này anh cũng không thể nào nguôi hận. Cứ cho là vì anh, cô cũng không nên biến mình thành loại người như hôm nay.




“Anh nhìn đủ chưa ? Đủ rồi thì đưa em về lại chỗ cũ ngay đi….” Cô gắt lên.




Đưa tay mở cửa xe. “Tại sao ?” mắt vẫn không nhìn cô, bàn tay siết chặt lấy vô lăng anh hỏi cô một cách nặng nề, mệt mỏi.




“Em cần tiền….”




Tiền, tất cả chỉ vì đồng tiền thôi sao ? Anh tức giận đưa tay lôi cô vào xe và nhấn ga lao đi.




Thoáng bàng hoàng nhìn anh, nhưng rồi cô nhanh chóng lấy lại vẻ mặt bất cần của mình. Có gì đâu, khi bây giờ đã không còn đáng được yêu thương và tôn trọng.




Chiếc xe lao nhanh đến một khách sạn gần đó, anh lôi cô vào trong, nhận chìa khóa rồi lại kéo tay cô lôi lên phòng. Đẩy mạnh cô xuống giường, anh đưa tay đè cô xuống và hôn tới tấp vào môi cô. Nụ hôn mạnh bạo chứa đầy tức giận, đau khổ, không còn là những cữ chỉ âu yếm ngọt ngào như trước đây. Khi chiếc váy trượt xuống khỏi cơ thể, những vết bầm tím trên vai, ngực cô hiện lên rõ ràng dưới ánh đèn, anh ngừng lại. Cô bây giờ không còn là cô gái trong sáng chỉ thuộc về anh, cô bây giờ đã nhàu nhĩ cũ nát và héo úa đến mức đáng giận. Đẩy cô ra, anh đứng dậy nhặt chiếc áo sơ mi mặc vội vào người.




Trước khi quay đi, anh vung tay ném lên giường cho cô những tờ năm trăm ngàn mới tinh rồi bước vội ra khỏi phòng.




” Em cần tiền…. Chỉ cần tiền mà thôi….” Cô cười lên như điên dại, nhặt những đồng tiền anh vứt ra như nâng niu một thứ gì đó đáng quý nhưng rất tiếc là đã vỡ nát mất rồi.




Những chuyện xưa Images+%252813%2529









Những ngày sau đó anh lao vào công việc.




Những ngày sau đó cô lại lao vào kiếm tiền.




Chỉ khi đêm về anh lặng lẽ ôm vào lòng ký ức về khuôn mặt cô cách đây bốn năm, một khuôn mặt xinh đẹp, trong sạch. Chỉ khi đêm về, cô lại lê những bước chân nặng nề trên nền gạch bệnh viện, lặng lẽ ôm vào lòng hạnh phúc nhỏ nhoi của riêng cô bằng tấm thân nhơ nhuốc của mình.




Và họ không gặp nhau, dù là vô tình hay cố ý.




***








Anh lái xe chậm rãi trên những con đường trước đây anh và cô cùng đi qua. Những kỉ niệm đẹp bỗng trở về nhưng không còn mang lại hơi ấm hạnh phúc, ngọt ngào mà dường như chỉ gợi lại những chua chát, đau thương. Thẩn thờ nhìn về phía bên kia đường, một cảnh tưởng đập vào mắt khiến anh khó chịu. Một người đàn bà to béo đang ra sức đánh chửi tới tấp vào mặt một cô gái trẻ. Một tay bà nắm tóc cô, tay kia ra sức kéo tay cô ra và tát mạnh vào mặt cô. Đúng. Cô gái đó chính là cô ấy, là người một thời anh yêu thương, ôm ấp. Những câu chửi rủa từ người đàn bà đó và từ những người xung quanh đập vào tai anh, nhức nhối.




” Con điếm, mày chết đi ... Dám bu bám theo chồng bà à ... Mày đúng là thứ cặn bã mà”, tiếng lao nhao phụ họa theo ...




”Cái thứ này không đáng để cứu ...”, “Cặn bã….”,




”Sao chúng nó còn chường mặt ra ngoài xã hội nhỉ ...”, “Chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh ...”, ...




Anh bật cười, cái giá cho đồng tiền em kiếm được chỉ như vậy thôi đấy. Em thấy không, đến anh còn thấy khinh em nữa là người khác. Cúi đầu bật chìa khóa, anh không còn muốn can thiệp vào cuộc đời cô nữa rồi.




Chợt một tiếng hét chói tai vang lên, kéo sự chú ý của anh trở lại nơi cô đang đứng … Cô lấy sức đẩy người đàn bà đó ra, nhưng lại bất ngờ bị bà ta đẩy ngược lại một cái thật mạnh. Cô bị đẩy ra đường, một chiếc ô tô bất ngờ lao tới không thể tránh kịp đã tông vào cô. Cô nằm đó, máu cứ không ngừng chảy, ướt đẫm mặt đường. Đẩy cửa xe thật mạnh anh chạy tới chỗ cô, đưa đôi tay run rẩy nâng cô dậy.




Anh nhìn cô đau đớn, nỗi đau đè nặng lồng ngực khiến việc gọi tên cô cũng thật khó khăn.




Cô nhìn anh, ánh mắt mờ đục, đưa tay quờ quạng như muốn tìm một thứ gì đó.
”Giúp em … túi … xách …” cô thều thào nhìn anh van nài.




Nhặt chiếc túi xách đưa cho cô, cô run rẩy mở túi xách, nhưng sức cô yếu quá rồi, đến chiếc khóa kéo cũng không thể mở được. Gỡ tay cô ra, anh cúi đầu mở túi, bên trong không có gì cả, ngoài một cuốn sổ cũ kĩ và ố vàng, một tấm ảnh chụp một đứa bé trai ngộ nghĩnh đang cười toe toét. Ấn cuốn sổ vào tay anh, cô ôm lấy tấm ảnh rồi khẽ mỉm cười.




“Giúp ... em … cứu đứa trẻ này … được không ?”




Không kịp nghe câu trả lời từ anh, mắt cô dần khép lại, đôi tay vẫn ôm chặt tấm ảnh vào lòng, môi mỉm cười. Nụ cười cuối cùng của một cuộc đời đầy nước mắt. Trời bắt đầu mưa nặng hạt và cô đã ra đi mãi mãi ...




***








Nhiều khi anh cũng tự cảm thấy bản thân mình là một người lạnh lùng. Kể cả lúc nhìn thấy cô nằm trên vũng máu đỏ, đến lúc nhìn chiếc xe cứu thương chở xác cô đi tuyệt nhiên anh không rơi một giọt nước mắt. Ngồi lặng lẽ trong căn phòng quen thuộc của mình, chiếc áo sơ mi trắng anh mặc trên người vẫn loang lỗ những vệt máu của cô.
Đưa tay giở từng trang sổ, nét chữ nghiêng nghiêng quen thuộc, từng dòng, từng dòng, những tâm sự của cô chất chứa trong bốn năm hiện lên
trước mắt anh.








Ngày … tháng … năm …, hôm nay anh đi, em về lại căn nhà của chúng ta mà sao thấy trống vắng quá. Thật sự em không muốn như vậy chút nào, nhưng em vẫn sẽ đợi. Em hứa chắc đấy!




Ngày … tháng … năm …, lâu lắm rồi không nghe được tin tức gì từ anh vậy mà lúc nghe được lại là tin anh lấy vợ. Em thật sự hoang mang lắm, không biết có nên tin hay không đây ? Nhưng anh yên tâm, em đã hứa sẽ đợi thì nhất định em sẽ đợi….




Ngày … tháng … năm …, hôm nay em thấy khó chịu trong người quá, đã mấy ngày nay không thể ăn được gì cả. Em nhớ anh, nếu anh ở đây anh sẽ chạy ngược chạy xuôi mua thuốc và thức ăn cho em. Hạnh phúc chỉ như vậy thôi nhưng sao lại ngắn ngủi vậy hả anh?




Ngày … tháng … năm …, em có thai rồi, đáng lẽ ra phải vui nhưng sao không thể cười nỗi ,nước mắt cứ không ngừng tuôn ra. Có con, nhưng em như vậy làm sao nuôi được con đây, làm sao báo cho anh biết đây … Em bổng tủi thân, tủi thay cho cả con của mình …




Ngày … tháng … năm …, bụng em ngày càng lớn, em phải nghỉ học thôi, ước mơ của em chắc chỉ có thể được đến như vậy. Nhưng cũng thật may, có người nhận em vào làm tạp vụ tại một quán ăn, lại thêm một việc nữa để em có thể kiếm tiền mua cho con một chút đồ gì đó khi con ra đời. Anh à, bao giờ anh sẽ trở về hả anh ?




Ngày … tháng … năm …, hôm nay tự nhiên lại ngã, nhìn máu chảy ra không ngừng em sợ lắm, em không muốn mất con đâu … Đi khám thì tất cả vẫn ổn, không sao cả, em mừng đến phát khóc anh ạ … Tối nay lại đau không chịu được, em vỗ nhẹ và thì thầm với con “thương mẹ thì đừng làm mẹ đau nữa nhé, làm xong việc này mẹ sẽ về cho con nghỉ ngơi mà”. Đúng là con của anh, ngoan lắm, em hết đau ngay lập tức. Có thể với em bây giờ là hạnh phúc.




Ngày … tháng … năm …, con ra đời rồi anh ạ, trông đáng yêu lắm. Nhìn con ngủ ngoan trong tay mình em lại thấy mắt cay cay, ước gì anh ở đây để bế con. Chỉ một lần thôi….




Ngày … tháng … năm …, sinh nhật con tròn hai tuổi, nhưng ông trời lại tặng con mình món quà độc ác quá anh ạ. Nó đã không có bố, không được sống đầy đủ vậy mà giờ đây lại mắc bệnh ung thư máu. Phải làm sao hả anh? Em nhìn con mê man trong cơn sốt, nhìn những vết bầm tím trên người con mà không thể cầm lòng. Đến giờ phút này em không thể mạnh mẽ được nữa rồi….




Ngày … tháng … năm …,  xin lỗi anh, em không còn cách nào khác.
Tiền điều trị cho con cao quá, em không thể cầm cự được nữa rồi. Công việc hàng ngày của em không đủ đề chi cho những ngày con nằm viện. Em không muốn mất con, em muốn con được ăn ngon, được uống thuốc, em đành phải đánh mất chính mình thôi. Lần đầu làm thật không dễ, nhưng rồi sẽ quen thôi. Em quyết định sẽ không đợi anh nữa vì con cần em hơn. Em xin lỗi !!!




Ngày … tháng … năm …, cuối cùng anh cũng trở về, thật buồn cười khi giờ đây anh nhìn em như vậy. Thấy em khác quá nhiều so với tưởng tượng của anh đúng không ? Anh nhìn em bằng ánh mắt ghê tởm, đúng là con người em đã rách nát thật rồi. Anh vung tiền cho em để xem sĩ diện của em có còn hay không hả ? Xin lỗi anh, em không cần sĩ diện nữa rồi, em cần tiền. Tự nhiên em lại thấy vui, tối nay con lại được tiêm thuốc, ăn ngon và là lần đầu tiên con có quà sinh nhật từ bố. Chắc con cũng sẽ vui như em ...




Ngày … tháng … năm …, tủy của em không tương thích với con, nhưng em nghĩ anh sẽ thích hợp. Sáng mai em sẽ tìm anh, em sẽ cho con gặp anh … Chờ em nhé …




Một giọt nước mắt nhỏ lên những trang giấy đã nhòe nhoẹt nước mắt của cô. Ôm cuốn nhật kí vào lòng anh khẽ khóc lên không thành tiếng.




***




Anh nhẹ nhàng khép cửa, đứa bé ngước đầu nhìn anh mỉm cười, mặc cho người y tá lấy đi một xi lanh đầy máu, nó vẫn không khóc lấy một tiếng chỉ khẽ nhíu mày. Khuôn mặt đứa trẻ nhìn kháu khỉnh, thông minh và giống anh như đúc.




Đưa tay xoa đầu con anh cúi xuống hỏi nhỏ




”Con có đau không ?”




“Đau … nhưng con không khóc đâu, mẹ đã dặn là con trai thì không được khóc”.




Đưa bàn tay nhỏ gầy guộc đầy dây nhợ nắm chặt lấy vạt áo của anh, đứa bé yếu ớt reo lên




“Bố về rồi, từ giờ con không phải nhìn bố trong ảnh nữa rồi phải không ?”




“Ừm, bố đã về.” Anh nhìn con âu yếm.




”Mẹ đâu rồi ạ ?” Đứa trẻ lại thều thào hỏi, ôm con vào lòng, anh vỗ nhẹ vào lưng con,




“Mẹ mệt rồi, mẹ phải nghỉ ngơi con ạ. Từ giờ bố thay mẹ chăm sóc con được không ?”




Thằng bé ngọ nguậy gật đầu ... những giọt nước mắt nóng hổi của bố nó lăn dài và ướt đẫm chiếc áo nó mặc, nó tròn xoe mắt ngạc nhiên ?








Những chuyện xưa Images+%252817%2529









Khuyết danh








NẾU CÓ KIẾP SAU, ANH SẼ KHÔNG BAO GIỜ YÊU EM !
Truyện ngắn :Những chuyện xưa Images+(2)









Anh là một chàng sinh viên nghèo. Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em là tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy người giúp việc. Lần đầu tiên về quê đến cây tỏi tây và cây hành em cũng không phân biệt được




Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ cốc coca lên váy trắng. Ngượng ngùng anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh.




Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi ...




Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà. Nhưng em đã quyết định theo anh. Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời.




Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà tồi tàn của anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm. Anh thương em, đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ.




Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Bố mẹ em thương đến đón em về nhưng em từ chối. Chữa bệnh cho anh em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng cũng hết. Bố mẹ em thấy con khổ lại cho tiền.




Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê, em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm. Đi chợ mặc cả, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác.




Bác sĩ bảo chồng bà không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh, hy vọng một phép màu sẽ đến. Ngày ấy em nghe có một bác sĩ châm cứu giỏi. Em đèo xe 50km đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa ngày lạnh ngày nóng.




Nhìn em, anh khóc : Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh.




Một năm sau phép màu đến thật, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay.




Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói : phải đi, cơ hội không đến hai lần.




Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa ... Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu. Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, vì một việc thế này em ko sợ mất anh.




Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời: Em chờ anh ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe từ sân bay về là em không bỏ qua chuyến nào.


Những chuyện xưa Images+(3)
Em chờ anh ở đây mỗi ngày ...




Anh chỉ khóc mà nói: nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm đau lắm, tình yêu của em quá nhiều khổ đau ...








Em đáp trả lời anh: tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh.




Khuyết danh
-----------------




Truyện ngắn :
TRỞ VỀ ...




Một người lính vừa trở về từ chiến trường ...




Vừa xuống sân bay, anh gọi điện về cho cha mẹ :




"Thưa cha mẹ ... con đã trở về ...".




"Ơn Chúa, con vô cùng yêu quí, hãy về nhà mình ngay lập tức, cha mẹ muốn nhìn thấy con ...".




"Con còn có một người bạn đi cùng nữa và con muốn cha mẹ đón nhận bạn ấy như người trong nhà".




"Một người bạn ư ? Thật là tuyệt vời !".




"Nhưng bạn ấy không phải là một người bình thường, bạn ấy bị cụt một tay và một chân".




"Ồ, con yên quý, có lẽ ... con nên ... gửi bạn vào một trại thương binh nào đó, và bạn con có thể tự tìm được cách sống chăng ?".




Người lính im lặng và cúp máy ...




Bốn ngày sau, cha mẹ anh nhận được giấy báo của cảnh sát, con trai của ông bà đã nhảy lầu tự tử.




"Tại sao lại vô lí như vậy ? Nó có gia đình, nó lại vừa được trở về từ cõi chết..".




Hai ông bà vội vàng lái xe đến đồn cảnh sát, vừa bước chân vào nhà xác, hai người kinh ngạc dừng bước ...




Người nằm đó, con trai của họ ... bị cụt một chân và một tay ...




Khuyết danh


Những chuyện xưa T%E1%BA%A3i+xu%E1%BB%91ng








Giàu làm kép hẹp làm đơn




Trong tiếng Việt, “kép” và “đơn là hai từ trái nghĩa, “kép” là “đôi, hai, cặp”, trái với “đơn” là “một”. Với các ý nghĩa đó, người Việt gọi cái áo có hai lần vải là áo kép, chiếc lá cây gồm hai lá chét gọi là lá kép, cửa sổ hai lớp gọi là cửa sổ kép, bị thiệt thòi nhiều bề gọi là thiệt đơn thiệt kép, mưa gió giãi giề gọi là gió kép mưa đơn, v.v. “Kép” và “đơn” trong câu tục ngữ “giàu làm kép, hẹp làm đơn” chính là nằm trong tương quan ngữ nghĩa ấy.
Trong văn chương Việt Nam, chúng ta thường biết đến nhiều câu đối rất hay của cụ Tam nguyên Yên Đổ, trong đó câu đối mà Nguyễn Khuyến cho người cô đầu ở Hà Nam để thờ mẹ cô, cũng vốn là cô đầu, nhân ngày giỗ:
“Giàu làm kép, hẹp làm đơn, tống táng cho yên hồn phách mẹ. Cá kể đầu, rau kể mớ, tình tang thêm tủi phận đàn con”.
Trong câu đối này, Nguyễn Khuyến đã hóm hỉnh mà lồng câu tục ngữ “giàu làm kép, hẹp làm đơn” vào để an ủi người cô đầu, làm mát dạ người “nơi chín suối”. Câu tục ngữ dùng trong vế đối này hàm chỉ mức độ to nhỏ của việc làm giỗ: nhà giàu có khả năng kinh tế thì làm cỗ to (kép), còn nhà nghèo, eo hẹp kinh tế thì làm cỗ nhỏ (đơn), tùy theo gia cảnh. Câu tục ngữ trên, ngẫm cho kĩ nhiều khi được hiểu với nghĩa rộng còn là cách thể hiện niềm tự hào kín đáo của một người biết lo liệu, thu xếp cho cuộc sống phù hợp hoàn cảnh riêng của mình:
“Giàu làm kép, hẹp làm đơn, cơ cực đường nào, liệu đắn đo là kẻ phải.
Đôi khi, trong sử dụng, câu tục ngữ này có dạng rút gọn là “giàu kép, hẹp đơn”. Về nghĩa, dạng đầy đủ và dạng rút gọn của câu tục ngữ đang xét không có gì khác biệt đáng kể.


Được sửa bởi Admin ngày 11/10/2019, 12:35 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:21 am

Những chuyện xưa Hoa-hai-duong-1
Sự tích hoa Hải đường


Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất. Kamêli bẻ ngay một cành cây tươi và đau đớn trở về nhà. ít lâu sau, từ cành cây đó mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ.


Chuyện kể rằng:

Những chuyện xưa Hoa-hai-duong-2






Khi linh mục Kamêli được phái tới Nhật Bản để truyền đạo thì ông không ngờ rằng ông lại bắt gặp ở đây những vị thần có khả năng quyến rũ cả những cha cố tiếng tăm. Ông thề rằng ông sẽ tránh xa mọi cám dỗ trần thế và tự hành hạ mình bằng cái đói và cái khát. Bởi vậy các thầy học của ông và bản thân ông đều tin rằng với sự trong sáng của mình ông rất đáng được ơn huệ của Chúa, và Chúa sẽ giúp ông biến những người Nhật Bản lầm lạc theo đạọ .


Ở Nhật Bản, trong lúc chuẩn bị cho công việc đại sự, cứ chiều chiều ông lại vào rừng nhặt nhạnh các rễ cây và bắt châu chấu đem phơi khô dành cho mùa đông. Phải nói rằng số lượng lớn châu chấu mà ông kiếm được là ở trên các cành của một cái cây lớn. Châu chấu nhiều đến nỗi dù ông cố bắt hết thì sang chiều hôm sau chúng lại phát triển thành bầy nhung nhúc.


Vào một buổi chiều nóng bức, Kamêli dừng chân trong một làng xa, kể chuyện cho những người nông dân nghe về buổi truyền đạo trên núi và mãi tới tận nửa đêm ông mới tới được cái cây lạ lùng kiạ Mặt trăng tròn vành vạnh nhô cao trên đỉnh rừng, cây cối đứng im lìm tựa như đã thấm mệt, còn lũ châu chấu thì im lặng hoặc có thể vị linh mục đã quá quen với tiếng kêu ri rỉ của nói đến nỗi chẳng buồn nghe nói nữa.


Khi Kamêli chắp hai tay vẻ thành kính và ngước lên trời tạ Thượng Đế vì ơn huệ của một ngày qua thì trong đám lá cây bỗng vang lên tiếng cười ngọt ngào của một thiếu phụ.


- Ha Ha Ha! - một sinh vật như một chú thỏ, thoăn thoắt nhảy từ cành nọ qua cành kia, phô hàm răng trắng xoá.


“Một kẻ vô đạo đã phái con quỷ này đến cám dỗ ta đây” - Kamêli quả quyết.


Sau cái khoát tay của ông, con quỷ dường như hừng chí hơn, nó liền nhảy ngay xuống cành cây thấp nhất và bắt đầu huơ huơ đôi chân trắng ngay trên đầu vị linh mục.


Kamêli lùi lại vài bước, chăm chú nhìn cái sinh vật kỳ dị kiạ toàn thân nó được bao bọc một lớp xanh hòa lẫn trong màu xanh lá cây, chỉ có đôi chân trắng muốt và cái đầu nhỏ tóc vàng lấp lóa ánh trăng là thấy rõ và được thu lại tựa một bông hoa sặc sỡ đang kỳ nở rộ.


- Ngươi là ai? - tu sĩ hỏi


- Hi hi! Ha ha!


- Ngươi là nữ nhi ư?


Sinh vật lắc đầu quầy quậy


- Vậy ngươi là ai? Tên ngươi là gì?


- Ta là Đơriađa, linh hồn của cái cây này - đầu tóc vàng thú nhận - Ta đến để tạ ơn ngươi vì ngươi đã làm cho thân cây của ta sạch bóng lũ châu chấu tanh hôi.


Nói xong, hồn cây nhảy luôn vào lòng bàn tay của tu sĩ, đoạn ôm chầm lấy ông và gắn vào bộ râu của ông một nụ hôn. Kamêli lúng túng đến nỗi đáng lẽ phải đẩy cô gái rừng xanh ấy ra xa thì ông lại kéo diết cô ta lại phía mình và cứ để nguyên giây phút kỳ diệu như thế trong đời một hồi lâu.


- Ta không thể ở lại với nhà ngươi lâu hơn được nữa - Đơriađa thì thào - nếu không cái cây của ta sẽ khô héo mất.


Con quỷ vùng ra khỏi tay ôm của kamêli và nhảy lên một cành cây xanh.


Chỉ đến lúc này vị tu sĩ mới hiểu rằng ông đã phá bỏ lời thề về sự trinh trắng và ông trở về nhà trong tâm trạng đầy u uất. Biết làm sao được? Liệu ta có còn xứng đáng là một vị linh mục nữa hay không?


Cho đến tận đêm khuya lạnh lẽo, cái đầu bốc lửa của Kamêli mới nguôi ngoai được đôi chút. Ông bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về những sự việc vừa xảy ra ông đã phá bỏ lời thề rồi ư? Người đã hôn ông không phải là một thiếu phụ mà là một linh hồn, bởi vậy, cái hôn này chẳng phải đem lại niềm vui sướng xác thịt. Nàng không phải là phù thủy, nếu không nàng đã biết sợ dấu hiệu của nhà thờ. Phải, trong kinh thánh không hề nói đến chuyện tiếp xúc với thần linh, như vậy là đã phạm tội sau khi tự chấn an như vậy, vị linh mục thấy tự tin hẳn lên.


Nửa đêm hôm sau, bị tính tò mò thôi thúc, Kamêli lại đến trước cái cây lạ.


- Đơriađa! - Ông cất tiếng gọi và dừng lại dưới một chiếc lá to bản.


- Hi hi! Ha ha! - Một tiếng cười hỉ hả cất lên. Và qua tiếng lá cây sột soạt có thể đoán ra cô gái rừng xanh đang tụt xuống đất.


Ngay từ lúc trưa, vị tu sĩ đã nghĩ cách giải thích lý do ông trở lại chỗ cây này khi Đơriađa đã ngồi trên một cành cây thấp, ông không hề lúng túng thanh minh:


- Tôi đến để xem lũ châu chấu có còn quấy rối các cây của bà nữa không.


- Một tên vô lại nào đó đã leo lên tận ngọn cây rồi, - Cô gái rừng xanh than phiền - nếu ngươi bắt được nó, ta sẽ rất biết ơn ngườị


Kamêli quấn hai vạt áo quanh thắt lưng và thoăn thoắt leo lên cây. Một con châu chấu đã bị tóm và ông đã được thưởng công xứng đáng.


Cả lũ châu cháu đã bị diệt gọn, song Kamêli không hề lúng túng, nghĩ cách đoạt được nụ hôn của Đơriađa. Mùa đông đã đến gần, không khí bắt đầu nhuốm lạnh. Trong một đêm Đơriađa đã nói với Kamêli:


- Ngày mai ngươi đừng đến đây nữa trước mùa xuân, cái cây phải nghỉ ngơi và ta sẽ cùng nghỉ với nó.


Cái tin lạ lùng khiến Kamêli sửng sốt. Ông sẽ sống ra sao đây nếu thiếu niềm vui hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, rồi nhiều tháng cứ qua đi thì sao Còn linh hồn dịu dàng - Đơriađa - hẳn nàng đang bị chết cóng trong hốc cây không, phải nghĩ ra một điều gì đó, phải làm một cái gì đấy để cứu nàng.


Giá như còn thời gian hẳn Kamêli sẽ nghĩ ra được điều gì đấy, nhưng bây giờ chẳng còn thời gian để nghĩ nữa, cần phải hành động. Ông túm lấy co gái rừng xanh, giấu dưới vặt áo rộng và đem về nhà mình. Suốt dọc đường Đơriađa đành câm miệng hến, chỉ khi bước vào gian phòng mà vị linh mục đặt nàng xuống giường, nàng mới kêu lên:


- Ngươi làm cái trò gì thế? Giờ này chắc cái cây của ta đang bắt đầu chết héo.


- Mặc cho nó chết héo chẳng lẽ trong rừng hiếm cây sao - Kamêli an ủi nàng.


- Ông hiểu việc đó như thế nào, nếu cái cây của tôi khô héo thì tôi sẽ chết. - Đơriađa nói, giọng buồn bã.


- Đó là chuyện nhảm nhí, ta sẽ giải phóng nàng khỏi nơi này - Vị tu sĩ thề thốt.


Tới mùa xuân, khi các lá cây bắt đầu trổ màu xanh, Đơriađa cứ yếu dần và ngày rộc hẳn đi.


- Hãy trả ta về với cây của ta! - Nàng khẩn khoản nói với Kamêli và ông đã sẵn sàng thực hiện yêu cầu của nàng, đồng thời hy vọng không khí mùa xuân sẽ chữa cho Đơriađa lành bệnh.


- Thật là đau khổ! - Đơriađa kêu lên khi Kamêli đặt nàng ngồi trên cành cây thấp - Cái cây của tôi đã chết rồi.


Trước mắt Kamêli nàng cứ tự tan biến đi và hòa lẫn vào cây xanh: Mãi tới một ngày kia, hệt như bông hoa lộng lẫy, mớ tóc hung hung của nàng bừng đỏ lên, rồi sau đó chúng cứ lấp loáng.


- Xin nàng đừng bỏ đi, hãy nói với ta, dù chỉ là đôi lời!


Kamêli thất vọng cầu xin và ông đã nghe được giọng nói yếu ớt đáp lại:


- Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất.


Kamêli bẻ ngay một cành cây tươi và đau đớn trở về nhà. ít lâu sau, từ cành cây đó mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ.


Những chuyện xưa Hoa-hai-duong-3








Vài năm sau, vị tu sĩ già từ Nhật Bản trở về Châu Âu. Ông là người duy nhất mang theo về một chậu hoa mà ai cũng phải trầm trồ. Kamêli đặt tên nó là Hoa Đơriađa nhưng người đời không thể nhập tâm được một cái từ khó đọc như vậy nên đã gọi tên hoa bằng tên vị linh mục: Kamêli - Hoa Hải Đường
Ngoài ra hoa hải đường còn có loại hoa màu trắng tinh




Văn hóa Thần truyền: Lấy Đức để tỏ lòng tôn kính Trời
Bài của Trí Chân
[MINH HUỆ 1-1-2009] Văn hóa dân tộc Trung Hoa là văn hóa Thần truyền cho loài người, có lịch sử văn minh rực rỡ lâu đời. Đạo gia, Nho gia, và sau này là Phật gia là văn hóa truyền thống tiêu biểu làm khuôn mẫu cho hành vi và ý thức tư tưởng của mọi người, khiến cho các ý thức đạo đức như kính Trời, kính Thần, tu đức, yêu dân … đã bắt rễ sâu vào lòng người.
Cổ nhân cho rằng khi Trời đất tạo ra muôn vật, đồng thời cũng ban cho vạn vật đức tính không ngừng sinh sôi. Đức tính không ngừng sinh sôi ấy là lực lượng nội tại, khiến vạn vật tràn trề nhựa sống, đua nhau trưởng thành. “Đạo” là nguồn gốc của vạn vật và sinh mệnh. Lão Tử nói: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên”, đã trình bày rõ quan hệ giữa con người với Tự nhiên, vạch rõ trong vũ trụ mọi sự vật đều phải tuân theo đặc tính vũ trụ và quy luật vận hành không ngừng sinh sôi nảy nở. Khổng Tử nói: “Thiên hà ngôn tai, tứ thời hưng yên, vạn vật dục yên”, “Hoạch tội vu thiên, vô sở đảo dã” (Tạm dịch: “Trời không nói gì, bốn mùa hưng thịnh, vạn vật sinh sôi”, “Phạm tội với Trời, không cách nào xoay chuyển được”. Mạnh Tử giảng biết Trời, kính Trời: “Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã, tri kỳ tính, tắc tri thiên hĩ” (Tạm dịch: “Người nào hiểu rõ nội tâm bản thân, thì có thể hiểu được bản tính tiên thiên. Hiểu bản tính tiên thiên thì có thể hiểu được Trời”. Vạn vật thế gian chớp mắt biến hóa khôn lường, “Cao đường minh kính bi bạch phát, Triều như thanh ti mộ thành tuyết” (Tạm dịch: “Gương sáng nhà cao buồn bạc tóc, Sáng tóc còn xanh, chiều tựa tuyết”), chỉ có đạo Trời vĩnh hằng không thay đổi, hành vi của loài người cần phù hợp với đạo Trời, cần phải “Quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành” (Tạm dịch: “Xem Đạo Trời, hành động thuận theo Trời”), mới có thể chung sống hòa hợp với Tự nhiên đất trời, thiên hạ mới được thanh bình hạnh phúc và tồn tại lâu dài.
Cần phải chân chính làm được “Thiên nhân hợp nhất”, thông qua tu thân dưỡng đức, do đó đã hình thành nên truyền thống tu thân từ thời cổ đại ở Trung Quốc. Quân tử cần phải tu thân mỗi ngày, tự kiểm điểm những việc làm của bản thân có phù hợp với luật Trời hay không. Nếu không tu đức thì sẽ buông thả dục vọng, đánh mất phương hướng bản thân rồi sa ngã. Trong sách “Đại học” viết: Thánh nhân Thương Thang Vương có một cái khay dùng để tắm gội, trên đó có khắc dòng chữ: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”, nghĩa là thân thể con người, mỗi ngày đều sẽ nhiễm nhiều bụi bặm, cho nên mỗi ngày đều cần tắm gội. Cũng như thế, tinh thần cũng phải hàng ngày đều phải tắm rửa, thể hiện thái độ nhân sinh, tinh thần tự suy xét chính mình và nghiêm khắc kiềm chế bản thân của người quân tử. Tăng Tử nói: “Từ thiên tử cho đến thứ dân tất cả đều lấy việc tu thân làm gốc”, tu thân là hiểu Trời, kính Trời, là cách duy nhất để đạt tới cảnh giới cao quý và một tấm lòng bao la nhân ái.
Người ta nên noi theo tấm gương này của trời, học tập đức hạnh của Trời Đất: sự chân thật, cực kỳ công bằng và quang minh chính đại của Trời tràn ngập thế gian. Con người cần có tâm tư chân thành để tương thông với Đạo Trời, “Thành giả, thiên chi đạo dã; tư thành giả, nhân chi đạo dã” (Tạm dịch: “Hoàn toàn là Đạo của Trời; trở nên hoàn thiện: Đạo người xưa nay”). Làm người cần phải chân thành trong sáng, biết phân biệt đúng sai, dồi dào chính khí mới có thể dung hợp với Nghĩa và Đạo, đạt đến “Thượng hạ dữ thiên địa đồng lưu” (Tạm dịch: “Hòa vào và cùng lưu chuyển với Thiên địa Càn Khôn”). Thiên thượng có đức hiếu sinh, lòng Trời là nhân từ nhất. Trong “Thi Kinh – Hạn lộc” đã mô tả sức sống hừng hực của vạn vật: “Diên phi lệ thiên, ngư dược vu uyên” (“Diều hâu bay cao tận trời, cá bơi nhảy dưới vực sâu”). Trời đất mãi mãi vận động không ngừng nghỉ, bao trùm tất cả, nuôi dưỡng vạn vật, giúp vạn vật cùng nhau sinh trưởng, bản thân lại không nhận lấy bất kỳ thứ gì cả. Trời đất chất phác, khiêm tốn, rộng rãi vô tư, đại đức chí thiện như thế là đạo lý nhân sinh mà con người cần phải noi theo. Cần phải học tập lòng nhân đức của Trời Đất, lòng dạ từ bi bao dung, ý chí kiên định hướng thiện, đúng như lời trong “Chu Dịch”: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức; địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tái vật” (Tạm dịch: “Trời vận động mạnh mẽ, người quân tử nên cố gắng không ngừng; Đất có tính nhu hòa, người quân tử lấy đức dày để nâng đỡ vạn vật”). Người nhân từ thương yêu con người, quý trọng sinh mệnh, bảo vệ người khác, quan tâm đến vạn vật trong vũ trụ, hy vọng vạn vật được phồn thịnh vui sướng. Quân tử xem việc chăm lo cho thiên hạ muôn dân là trách nhiệm của mình, dùng phẩm cách đứng đắn và nhân cách cao thượng mà cảm hóa người khác, cùng với người khác đi trên một con đường làm việc thiện, khiến cho tất cả đều hướng về chính đạo Luật Trời.
Cho nên từ cổ đại, người ta kính Trời kính Thần, an phận và hiểu Mệnh, tích đức làm việc thiện. Nho, Phật, Đạo đều nhắc nhở mọi người Tin vào Thần linh kính trọng Trời, theo Thiện tích Đức, biết cảm ân và báo đáp, mới có được hạnh phúc chân chính, mới có thể được Thiên thượng che chở cho mình. Truyền thống văn hóa kính Trời thể hiện ra ở nhận thức sâu sắc về quan hệ giữa con người với Tự nhiên, con người với xã hội, giữa người với người. Mọi người đều tin tưởng chân lý thiện ác có báo ứng: người tích Đức trời ban vận may, kẻ tích Nghiệp trời giáng tai ương. Cho nên mọi người không ngừng sửa đổi bản thân, trở về với chính niệm, tích lũy tấm lòng chân thành nhất để cảm động tâm của Thiên thượng. Những thánh hiền quân tử đạo đức cao thượng, những người tu luyện am hiểu và thực hành chân lý, đều luôn thuận theo Ý Trời mà hành động. Sở dĩ họ siêu phàm xuất chúng là bởi vì họ dũng cảm gánh chịu sứ mạng và trách nhiệm bảo vệ Đạo Nghĩa, là bởi vì họ là cái chuông của chính khí trong cõi Đất Trời. Chính vì vậy từ xưa tới nay họ luôn được người đời kính trọng và ngưỡng mộ.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:31 am

Ngày 20/11: Uống nước nhớ nguồn
Dân tộc ta có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”.
Từ thời phong kiến,người thầy đã có vị trí xã hội rất cao.
Trong bậc thang giá trị xét theo cấu trúc “Quân – Sư – Phụ”,
nhà giáo được xếp dưới vua nhưng trên cha mẹ.

Những chuyện xưa Images433897_Thay_do


“Tôn sư trọng đạo” - một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay


Thư Cha Gởi Cho Con

Các con thương yêu,
Viết những điều căn dặn nầy, ba căn cứ vào 3  lý do như sau:
1. Đời sống là vô thường; không ai biết trước mình sống được bao lâu; có những việc cần nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.
2. Ba là cha của các con; nếu ba không nói ra thì chắc không ai nói rõ với các con những việc nầy đâu!
3. Những điều dặn dò để ghi nhớ nầy là kết quả bao kinh nghiệm đau thương, thất bại đắng cay trong đời mình mà ba kiểm nghiệm được. Chúng sẽ giúp các con tránh được những nhầm lẫn oan phí trên con đường trưởng thành của các con.
Dưới đây là những điều mà các con nên ghi nhớ trong cuộc đời:
1. Nếu có người đối xử với con không tốt, đừng thèm để tâm cho mất thời giờ; trong cuộc đời nầy, không ai có bổn phận phải đối xử tốt với con cả, ngoại trừ cha và mẹ của các con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc các con phải biết ơn, trân quý, các con cũng nên thận trọng một chút, vì người đời thường làm việc gì cũng có mục đích của nó; chớ có vội vàng cho là bạn tốt của mình ngay.
2. Không có người nào mà không thể thay thế được cả; không có vật gì mà nhứt thiết phải sở hữu, bám chặt lấy nó. Nếu con hiểu rõ được nguyên lý nầy, thì sau nầy trong cuộc đời, lỡ người bạn đời không còn muốn cùng đi trọn cuộc đời, hay vì bất cứ lý do gì con bị mất đi những gì quý báu nhứt trong đời con, thì con nên hiểu: Đây cũng không phải là chuyện to lớn đến đỗi mình không kham nổi.
3. Đời người ngắn ngủi; nếu hôm nay ta để lãng phí thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi! Cho nên, nếu ta càng biết quý báu sinh mạng của mình càng sớm, thì ta được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Trông mong được sống trường thọ, chi bằng mình cứ tận hưởng cuộc đời mình ngay từ bây giờ.
4. Trên đời nầy chẳng hề có chuyện yêu thương tuyệt đối. Ái tình chỉ qua là một cảm xúc nhứt thời; cảm giác nầy, tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh tâm tư mà biến thiên, thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời bỏ con rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư mình từ từ lắng đọng lại thì cái đau khổ cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi. Không nên cứ ôm ấp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình.
5. Tuy có nhiều người trên thế giới nầy thành công, nổi tiếng mà chẳng có học hành nhiều, có bằng cấp cao, nhưng điều đó không có nghĩa là không cần học hành nhiều sẽ thành công. Kiến thức đạt được do việc học hành, giáo dục là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp với bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tất sắt. Nên nhớ kỹ điều nầy!
6. Ba không yêu cầu các con phải phụng dưỡng ba trong nửa quãng đời còn lại của ba sau nầy. Cũng như thế, ba không thể bảo bọc nửa quãng đời sau nầy của các con, lúc các con đã trưởng thành, độc lập; đó cũng là lúc ba đã làm tròn thiên chức của ba. Sau nầy các con có đi xe buýt công cộng hay đi xe nhà, các con ăn súp vi cá hay ăn mì gói, đều là trách nhiệm của các con.
7. Các con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ tín, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Các con có thể yêu cầu mình phải đối xử tốt với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử tốt với mình. Mình đối xử người ta thế nào, không có nghĩa là nguời ta sẽ đối xử lại mình như thế ấy; nếu không hiểu rõ được điều nầy, con sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình.
8. Trong mười mấy, hai mươi năm nay, ba tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn nghèo trắng tay; điều nầy chứng minh: Muốn phát đạt, phải siêng năng làm ăn mới  khá được. Trên thế gian nầy không có cái gì miễn phí cả.
9. Sum hợp gia đình, thân thích đều là duyên nợ với nhau trong kiếp người thôi. Bất luận trong kiếp nầy chúng ta sống chung với nhau được bao lâu, như thế nào, nên quý báu khoảng thời gian chúng ta được chung sống với nhau, dù ta có thương hay không thương, kiếp sau cũng không có dịp gặp lại nhau đâu.
Name(required)Trích từ Quốc Hoc 61 64



Trong nỗi dày vò khôn nguôi, nàng thường ôm con vào lòng khuyên bảo:
Con ạ, luôn nhớ rằng, khi mình nói điều gì làm người khác vui thì nói, còn nói gì làm người khác buồn thì đừng nhé con.
Con trai nhìn đôi mắt thẳm sâu của mẹ, gật đầu.
Còn nữa, nói làm người khác thương thì nói. Nói làm người khác ghét thì đừng!
Vậy mẹ đã nói gì mà bố im lâu thế?  -  Thằng bé hỏi ngây ngô.


TU HÚ

Những chuyện xưa Images?q=tbn:ANd9GcQeGU-Bo_pVgxpf26UwVYmCFi7OixvC1poEepWVJrgJ5UzIN3Do




CHỦ TIỆM TẠP HOÁ

Đạo bất khả tu du ly dã.
Đây là chuyện tôi nghe:




Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh.
Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện.

Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”


Những chuyện xưa Images?q=tbn:ANd9GcRFgNT5yR6h-wiGMtFAwaKkl4CdpKpkuqWyHcV5x_lbbMuos84uUw



Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?”
Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!”
Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.



Những chuyện xưa Images?q=tbn:ANd9GcS5Z9MhhpATJq_dcA-FwbNjmTBO-qAvulOcCXoGU0pQzAkwQVxcUg
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:40 am

Hiểu khác nhau

Hai thanh niên có nhiều điều không được như ý trong cuộc sống.Họ đến hỏi sư phụ:

Thưa thầy, chúng con trong công việc thường bị mọi người chèn ép, trong long rất buồn.Xin thầy cho chúng con biết chúng con có thể từ bỏ công việc hiện tại hay không?

Sư phụ nhắm mắt nhắm môi hồi lâu rồi mới nói ra năm chữ:Chẳng qua vì bát cơm

Nói xong xua tay, ý bảo hai người về.Hai người chưa hiểu ý thầy nói gì.Về đến công ty , một người đã nộp đơn xin thôi việc cho ông chủ rồi về làm ruộng.

Thấm thoát đã mười năm.Người về làm việc đã trở thành 1 đã trở thành một nông dân thực thụ.Người kia ở lại công ty không mắc sai lầm gì, lại do nhẫn nại, nỗ lực học tập, không ngừng vươn lên, dần được coi trọng và trở thành nhà quản lý.

Một hôm , hai người gặp nhau.Anh nông dân nói: Anh vì sao lúc ấy không nghe lời sư phụ? Sư phụ đề cho chúng ta năm chữ “Chẳng qua vì bát cơm”.Tôi vừa nghe đã hiểu.Chẳng qua vì một bát cơm thò làm sao phải chịu khổ ở công ty.Cho nên thôi về việc sống tự do tự tại..

Nhà quản lý cười nói: Nghe sư phụ nói “chẳng qua vì bát cơm” vừa thấy nhục vừa thấy khổ.Nhưng tôi cần cơm ăn nên ông chủ bảo gì tôi làm nấy.Không so bì thiệt hơn, không tị nạnh với người khác.Làm như thế có trái ý sư phụ không?

Hai người lại cùng đến gặp sư phụ.Đã già lắm rồi nhưng ông vẫn mở to đôi mắt.Lát sau ông đáp lại bằng năm chữ:


Chẳng qua hiếu-khác-nhau

Quan Bảng... học chữ

Sinh thời Lê Quý Đôn (1726 - 1784) nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ:

"Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn"

(Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi).

Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ.

Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao. Cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi:

- Bẩm, "chi" nào ạ?

Cụ thở than rằng:

- Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?

Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:

"Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ"

(Nghĩa là: Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó.
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâủ).

Thấy câu đối hay, lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng:

"Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi".

Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì.

Giai thoại còn kể rằng, một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:

- Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đố thế này, xin quan chỉ cho:

"Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng.
Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng".

(Nghĩa là: Dưới không thể dưới. Trên không thể trên. Đúng nên ở dưới. Không thể ở trên).

Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên.

Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai người cất tấm bảng. Từ đó ông bỏ tính kiêu ngạo, chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan đa năng, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.

Tiến sĩ ăn đòn

Nguyễn Công Hoàn sinh khoảng năm Canh Thân (1680) quán làng Cổ Đô, phủ Quảng Oai, Sơn Tây. Ông là người học vấn uyên thâm nhưng tính khí nóng nảy bộc trực lại có lối hành văn quá uẩn súc nên thi mãi không đỗ. Con trai là Nguyễn Bá Lân được ông rèn cặp bút nghiên từ nhỏ. Lớn lên, mấy lần cùng cha đi thi. Đêm đêm hai bố con ngồi học chung. Ông để sẵn cây roi, bảo:

- Hễ ai ngủ gật người kia cứ việc vụt.

Một đêm ông mệt quá, gục xuống thiếp đi. Bá Lân khẽ lay bố dậy. Ông vớ roi vừa đánh vừa mắng:

- Mày không đánh, cốt để tao học dốt hòng hại tao chứ gì?

Khi tập văn ông giao hẹn với con:

- Bài ai hơn được ăn cơm, kém cho nhịn.

Khi biết văn mình không bằng con, ông nhịn thật. Biết tính ông như vậy, không ai dám mời.

Một hôm cha con trên bến chờ đò. Thấy đàn dê đang gặm cỏ, ông bảo:

- Tao với mày làm bài phú, lấy đề "Dịch đình dương xa" (Xe dê vào cung), ai làm chậm sẽ bị đẩy xuống sông.

Bá Lân làm xong trước, không nỡ đẩy bố xuống sông. Nhưng chính ông bố nhảy tùm xuống nước. Bá Lân hốt hoảng lao theo, khóc lóc vớt lên. Khoa Tân Hợi (1731) Vĩnh Khánh III, đời Lê Duy Phường, Nguyễn Bá Lân đỗ đầu Tiến sĩ. Công Hoàn bị đánh trượt. Hôm ăn khao, ông cười với quan khách rồi nói:

- Thằng Lân nhà này đỗ thủ khoa thì ra thiên hạ hết người tài.

Khoa sau ông lại lều chõng đi thi. Tiến sĩ Bá Lân đứng chân giám khảo. Chấm thi xong, Lân về nhà ngồi hầu cơm, ông hỏi dò:

- Khoa này có quyển nào khá không?

Bá Lân buông đũa, khoanh tay lễ phép thưa:

- Dạ thưa thày, có quyển khá, nhưng câu tứ lục thất luật nên không lấy đỗ được.

Ông nôn nóng hỏi:

- Câu ấy thế nào?

- Bẩm con xin đọc thày nghe:

"Lưu hành chi hóa tự Tây Đông, Nam Bắc vô tư bất bặc.
Thành tựu chi công do Cảo Mân, Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng".

Ông điên tiết xô đổ mâm cơm, vớ roi vụt lia lịa người Lân, quát mắng:

- Mày dốt như thế mà làm giám khảo, rõ là chôn sống bao nhiêu sĩ tử!

Thì ra hai câu ấy trong quyển của ông nguyên là:

"Lưu hành chi hóa tự Tây, Đông Nam Bắc vô tư bất bặc.
Thành tựu chi công do Cảo, Mân Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng".

Nghĩa:

"Đức hóa lưu hành tự Phương Tây, rồi Đông Nam Bắc không đâu không phục.
Công gây dựng do nơi xứ Cảo, để Mân Kỳ Phong đều cùng dấy theo".

Ông quắc mắc bảo Bá Lân:

- Mày được tiếng đỗ cao nhưng chưa thông hiểu nghĩa sách, phải ngắt câu như thế. Bởi nhà Chu khởi nghiệp ở hướng Tây, buổi đầu đóng đô vùng đất Cảo. Sao mày tối tăm thế?

Từ đó ông không màng đến cử nghiệp, lấy cày ruộng đọc sách làm vui. Còn Bá Lân, sau làm đến Thượng thư, tước Hầu. Biết mình cao khoa hiển vinh là nhờ ơn bố, ông luôn xót xa cho phụ thân là người tài ba thông tuệ nhưng chẳng gặp may.

Nguyễn Công Hoàn mất năm nào, ở đâu chưa rõ.



Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 9:53 am

Tri thiên Mệnh.

Những chuyện xưa Duc-dalai-lama


Những câu nói từ một trái tim nhân ái và từ khối óc minh triết của những bậc đại giác:
“ Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”


“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”
“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng. “ vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng:”nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

“Là con Phật, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“ Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi”


Những chuyện xưa 0016



Luật đời và Luật lương tâm
Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình; nhưng Chúa Giêsu lại bảo: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi"; hay Luật còn dạy rằng: "Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị"; nhưng Ngài lại bảo: "Ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình."Lương tâm trong sạch, đầy bác ái yêu thương, thủy chung thì không thể có hành động ly dị, thù hằn ganh ghét. Lòng dạ thế nào thì hành động thế ấy. Lòng có đầy, miệng mới nói ra. Chúa đã lên án những người sống giả hình, thiếu trung thực: " Cây tốt thì quả cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây".
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:05 am

Ông Già Họ Mã Mua..Ngựa Hay Là Miệng Thế Gian
Nhà họ Mã ngày trước chuyên nghề nuôi dạy ngựa và bán ngựa. Có một dạo gia đình ông suy sụp vì con ông bị bệnh nặng, đã vét hết tiền trong nhà mà con ông vẫn không khỏi. Ông bán hết số ngựa nuôi để thang thuốc cho con. Con ông sống được. Từ đó ông bắt đầu dành dụm, tằn tiện được một số tiền.Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con:

- Phụ thân xem biết nó rất quý, dù hơi gầy, thuộc giống

Hoàng Tuyết Phiêu của người Khương. Nhà ta gây được giống này sẽ làm giàu không mấy hồi. Ngặt vì xa ngót ngày đường, qua đèo truông e có cướp, nên cha con ta cùng đi. Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngã giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ.
Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói:

- Mã lão! Ông là người nuôi ngựa, sao không biết thương ngựa? Con ngựa gầy thế kia, còn cha con ông cọp ăn bảy ngày không hết, nỡ nào cả hai lại đè trên mình nó?

Ông Mã nói với con mình:

- Họ nói phải đấy con ạ! Vậy cha nhường cho con cưỡi. Cha cầm cương cho.

Thế là một mình Mã công tử ngồi ngựa, ông Mã đi bộ theo. Họ yên tâm đi xóm nhà khác, bây giờ trời đã khá trưa, những người ngồi mát trên đường thấy cảnh cha con họ Mã như vậy, họ kéo ra đón đầu ngựa, xỉ vả người con:

- Ai dạy công tử về cách hiếu đạo như thế? Con thì ngồi ngựa kênh kiệu, để cha chạy bộ theo đổ mồ hôi! Qua cánh đồng kia có học hiệu Khổng Môn, chắc họ đánh công tử trào máu ra mất!

Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha:

- Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt. Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói:

- Mã lão bá! Lão bá lâu nay mạnh giỏi chứ? Nghe nói lệnh

lang lâu nay bệnh thập tử nhất sinh, nay mới vừa hơi bình phục lão bá để lệnh lang nhọc nhoài cho đành. Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm:

- Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy. Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi:

- Đúng là cha con một lão vô học. Đây là giống Hoàng Tuyết Phiêu, một loại thiên lý mã, mua về để cưỡi hoặc làm giống, nào phải mua về để thờ, sao có ngựa lại không cưỡi?

Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con:

- Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong! Hai người dắt đi một đoạn cho khuất mắt mọi người, rồi tháo cương, cởi yên, đánh một roi, ngựa dong tuốt vào rừng mất dạng. Về đến nhà, bà cụ nghe đón đầu ngõ. Ông cụ thuật lại mọi chuyện. Bà cụ nghe qua đấm vào đầu bình bịch, vừa khóc vừa nói:

- Ngu sao là ngu! Có bao nhiêu vét đi mua ngựa, rồi thả ngựa đi! Xưa nay miệng lưỡi thế gian. Việc mình mình cứ làm, chiều ý, nghe lời họ làm gì? Rồi đây lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà cưới vợ cho con? Ngu ơi la ngu!...

LỜI BÀN:
Quả là, không "ở sao cho vừa lòng người"! Ông già họ Mã hiền hậu đến mức thiếu tự tin. Những người ngoài nhìn vào làm sao hiểu được tình trạng của họ Mã và con ngựa kia như thế nào?

Ý kiến nào họ nói cũng phải, nhưng trước nhất họ Mã phải biết đánh giá được cái việc của mình. Tục ngữ có câu: "Chín người mười ý", thì ý thứ mười là ý mình vậy. Mua ngựa là quyết tâm, mà giữ được "quyết tâm" (chỉ con ngựa) là thiếu quyết định. Thiếu một trong hai cái đều hỏng.

Những chuyện xưa Hinh-anh-con-ngua-dep-1
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:10 am

Lòng Tốt Với Lòng Tốt: Người Lương tưới dưa giùm người Sở
Thời Xuân Thu, đại phu Tống Tựa, nước Lương, được bổ nhiệm làm huyện lệnh của một huyện gần biên giới nước Sở.

Dân nước Lương và dân nước sở ở mấy thôn gần huyện thường trồng dưa. Thôn thuộc nước Lương có nước, tưới nhiều nên dưa lớn nhưng không được ngọt. Ngược lại, thôn thuộc nước Sở thiếu nước tưới nên dưa èo uột, trái nhỏ nhưng rất ngọt.

Người cả hai thôn đều hiềm khích với nhau, đêm đêm thường lẻn sang phá vườn dưa của nhau, do vậy, ruộng dưa nhiều năm thất bát.

Huyện lệnh Tống Tựu biết chuyện, liền mời thôn dân nước Lương, khuyên đêm đêm, nên múc nước tưới các vườn dưa giùm thôn người Sở. Ai nấy đều nghe lời khuyên của huyện lệnh.

Thời gian sau, thôn dân nước Sở lấy làm lạ, thấy dưa mình tươi tốt, trái to, ngọt.

Đêm đến, thôn dân nước Sở rình xem, họ cảm động khi thấy thôn dân nước Lương đêm đêm lại múc nước tưới cho những vườn dưa của mình. Từ đó, thôn dân hai nước Lương và Sở quên những hiềm khích cũ, đối sử với nhau rất tốt.

Câu chuyện đến tai vua Sở, ông ta liền đem lễ vật rất hậu tạ ơn huyện lệnh Tống Tựu và thôn dân nước Lương.

Theo sách Thuật sống của người Trung Hoa.

Những chuyện xưa 66_11_ruong-dua
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:13 am

GHÉT CON KHÔNG GIỐNG MÌNH


Doãn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống mình, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ ..."
Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Ðan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì còn cái gì mà giống cha? Cái đạo thường, thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu?"
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa."
Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ.
(Khổng Tùng Tử)


LỜI BÀN:
Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế. Nhưng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy.


Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:19 am

Truyện cổ Trung Hoa ( Thêm bạn bớt thù )
Vị quan phủ sáng suốt
Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.


Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng.
Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói:

“Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?”

Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:
“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”.

Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ.

Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa.

Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.

Có một câu ngạn ngữ Trung Hoa cổ thế này: “Một người chỉ có thể cảm hóa và thu phục người khác bằng lòng tốt và thiện tâm”.

Người Mỹ cũng có một câu thành ngữ tương tự như thế: “Người ta bắt được nhiều ruồi bằng mật hơn là bằng giấm” (“Mật ngọt chết ruồi”).

Những chuyện xưa Portraits_of_Jade_Emperor_and_the_Heavenly_Kings
Cám ơn cuộc sống

Mỗi người điều được Thượng Đế ban tặng những món quà riêng biệt, nhưng chúng ta không nhận ra, chúng ta chỉ muốn có được những thứ mà Thượng Đế biết rằng nó không thích hợp với chúng ta.Nếu cho bạn chọn một gia đình hạnh phúc, nhưng đời sống vật chất thì hơi khó khăn, sống qua ngày,không có điều kiện bon chen với bạn bè, Và chọn một cuộc sống giàu sang, hãnh diện và hưởng thụ, nhưng thiếu mất tình thương cha mẹ, gia đình tan nát, chỉ có thể dùng tiền để khỏa lấp khoảng trống trong lòng , vậy bạn sẽ chọn con đường nào?
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:32 am

Mạnh Thường Quân dưỡng khách

Những chuyện xưa Manhthuongquan

Mạnh Thường quân về đến nước Tề, được Tề Dẫn Vương cho làm tể tướng, bấy giờ môn khách tăng lên càng đông hơn. Một hôm, có một người tên là Phùng Quán đến xin theo. Mạnh Thường Quân thấy người này ăn mặc rách rưới mới hỏi có tài cán gì, Phùng Quán thản nhiên trả lời là mình chẳng có chút tài cán gì. Mạnh Thường Quân chỉ cười và cho ở lại.
Mạnh Thường Quân nuôi hơn 3000 thực khách nên chi phí quá lớn, bổng lộc không đủ chi dụng, phải dựa vào tiền thuê đất đai ở Bích Thành do vua phong, nhưng có một năm không thu được tiền về, mới cử Phùng quán đi đòi. Phùng Quán trước khi đi có hỏi Mạnh Thường Quân rằng: "Khi tôi trở về, ông có muốn tôi đem quà gì về không?". Mạnh Thường Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: "Thì ông cứ xem ở đây thiếu thứ gì thì đem về ". Phùng Quán đến Bích Thành mới biết năm đó bị thiên tai mất mùa, nông dân thiếu lương ăn khổ cực hết chỗ nói, Phùng Quán bèn tập họp họ lại, rồi đốt hết mọi giấy tờ vay nợ, khiến mọi người vô cùng cảm động. Phùng Quán trở về nói lại đúng sự thực cho Mạnh Thường Quân nghe. Mạnh Thường Quân nổi giận nói: "Trước khi đi ông nói sẽ đem quà về, nay ở đâu ?". Phùng Quán đáp rằng: "Ông đã nói ở đây thiếu gì thì mua về, nhưng tôi thấy ở đây chẳng thiếu gì cả, chỉ thiếu có tình nghĩa mà thôi, nay tôi đã đem tình nghĩa về đây". Mạnh Thường Quân nghe vậy khóc cười không được, liền phất tay áo đi ra.
Hai năm sau, Tề Dẫn Vương tin nghe lời bịa đặt của hai nước Tần, Sở, rất lo lắng Mạnh Thường Quân công cao lấn chúa, gây uy hiếp tới vương vị của mình, bèn thu ấn tể tướng của Mạnh Thường Quân, các môn khách thấy vậy đều nối đuôi nhau bỏ đi, duy chỉ có Phùng Quán là còn ở lại. Mạnh Thường Quân uể oải trở về cố cư ở Bích Thành, dân trong thành nghe tin ông trở về, liền dắt già cõng trẻ ra ngoài 100 dặm để đón. Mạnh Thường Quân nhìn thấy cảnh tượng này rơm rớm nước mắt nói với Phùng Quán rằng: "Tình nghĩa mà ông đã đem cho tôi, nay tôi đã thực sự cảm nhận được rồi".
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 10:34 am

Tâm đạm bạc không tranh với đời
Bài của Thanh Ngôn
[MINH HUỆ 13-12-2007] Trong nền văn hóa truyền thống, người ta cho rằng ai ai cũng có Mệnh, họa phúc cả một đời của con người ta đều là đã có định số, phú quý là căn cứ theo Đức tích tụ từ kiếp trước. Kỳ thực, từ góc nhìn của giới tu luyện mà xem xét, thì quả thực đúng là như thế. Nếu như vì tâm đố kỵ và sự bất mãn mà tranh đấu, làm hại người khác, thì chẳng những không thay đổi được vận mệnh của bản thân, mà ngược lại còn tạo nghiệp tích họa cho chính mình mà thôi. Vậy mới nói, làm người cần đạm bạc và độ lượng một chút, ngàn vạn lần không nên giữ tâm đố kỵ trong lòng, thứ đó đối với mình và đối với người khác chỉ có hại chứ không có lợi gì cả.
Lữ Dư Khánh thời nhà Tống là một cận thần của vua Tống Thái Tổ. Ông là người không hề có tâm đố kỵ, có đức hạnh và khoan dung giản dị.
Thời gian Triệu Khuông Dẫn (Sau này trở thành Tống Thái Tổ người khai sinh ra triều đại nhà Tống) đang nhậm chức Đồng Châu Tiết độ sứ, nghe nói Lữ Dư Khánh có tài năng, bèn xin triều đình đề bạt ông, bổ nhiệm ông làm Định quốc quân chưởng bí thư. Về sau Triệu Khuông Dẫn được cử đi nhậm chức ở các nơi, Lữ Dư Khánh đều đi theo phụ tá.
Lữ Dư Khánh có thể nói là cánh tay phải của Tống Thái Tổ. Sau khi Tống Thái Tổ lên ngôi vua, Triệu Phổ, Lý Xử Vân đều được thăng chức và bổ nhiệm làm quan, nhưng Lữ Dư Khánh lại không được trọng dụng. Thường thì người nào trong tình huống như thế cũng bất bình, nhưng Lữ Dư Khánh lại không để bụng chút nào.
Không lâu sau, Lý Xử Vân bị giáng chức làm quan coi sóc Tri Châu. Lữ Dư Khánh từ ngoại thành trở về đô, Tống Thái Tổ trưng cầu ý kiến của ông thật kỹ càng về chuyện của Lý Xử Vân. Đối với việc nhà vua trọng dụng Lý Xử Vân, Lữ Dư Khánh chẳng những không hề có ý đố kỵ hay oán giận, mà còn phân biện và giải thích dùm cho ông ta. Nhà vua cho rằng Lữ Dư Khánh nói rất có đạo lý.
Có lần Triệu Phổ làm trái với mệnh lệnh của Hoàng đế, những người xung quanh đều tranh nhau bài xích gièm pha Triệu Phổ, chỉ có một mình Lữ Dư Khánh đứng ra biện giải cho ông ta, nhờ đó Tống Thái Tổ mới dần dần nguôi giận.
Lữ Dư Khánh tấm lòng độ lượng, trung nghĩa vô tư, không có tâm đố kỵ, người thời đó đều ca tụng ông là vị trưởng lão có đức hạnh. Ông làm quan đến chức Thị lang bộ Lại, Thượng thư tả thừa, trong cuộc đời làm quan có rất nhiều thành tích lớn.

Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 11:05 am

Học tập suôt đời! Mạnh Thường Quân và chữ "Nghĩa"
Đọc sử xưa, vào thời Chiến Quốc, có đoạn thấy Phùng Hoan một thực khách của Mạnh Thường Quân hỏi rằng: “Đòi nợ xong rồi, ngài muốn tôi mua gì ở chợ mang về?”

Mạnh Thường Quân trả lời: “Xem trong nhà tôi có thiếu thứ gì thì mua về”, nguyên văn là: “Thị ngô gia sở quả hữu giả”.

Đến đây xin nói qua về 2 nhân vật này, những nhân vật chỉ có thể sinh ra ở thời Chiến Quốc: Mạnh Thường Quân và Phùng Hoan.

Mạnh Thường Quân họ Điền, tên Văn con trai của Tịch Quách Quân, tức là Điền Anh và là cháu của Tề Uy Vương. Vì con cháu nhà vua nên cả bố lẫn con đều được phong tước. Điền Anh được phong ở đất Tiết, và Điền Văn được phong ở đất Mạnh Thường, do đó mới lấy tên Mạnh Thường Quân, cả bố lẫn con đều làm đến chức Tể Tướng.

Thời Chiến Quốc là thời nhiễu nhương nhất của nước Trung Hoa, tiếp nối sau thời Xuân Thu. Tại sao lại gọi là Chiến Quốc(403-352) trước Công nguyên. Vì thời này Trung Hoa chia ra 7 nước nhỏ là Tấn, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ. Nhà Chu suy bại nên nước nào cũng chỉ chực muốn dành làm Vương làm Bá, vì đó mà đánh nhau không ngừng nên mới gọi là Chiến Quốc.

Gia đinh của Mạnh Thường Quân là người nước Tề, nhà lúc nào cũng có hàng nghìn thực khách, cũng với mục đích chiêu hiền đãi sĩ để đến lúc cần thì những người mắc món nợ miệng này phải trả bằng hình thức này hay hình thức khác. Có sách còn ghi rằng Mạnh Thường Quân rất khôn ngoan đã biết cách lấy tin tức từ người nước này mang bán cho nước khác, vì thực khách từ tất cả các nước đến chứ không riêng nước Tề, chỉ cần hỏi những mâu thuẫn nội bộ, những nhu cầu, địa điểm tình hình quân sự, chính trị của mỗi nước là có thể trao đổi.

Đời sau còn thấy những cái vạc, cái nồi to nấu được cho cả 100 người ăn ở chùa Thành Châu, Nam Thành. Được người ta gọi đó là Mạnh Thường Hoạch, tức là những cái hoạch của nhà Mạnh Thường Quân.

Đa số thực khách là những người bị thất sủng, cũng có khi là những can phạm ở các nước chư hầu khác phải bỏ xứ trốn đi, tất cả đều đến đó để có chỗ dung thân chờ một ngày mai hội đủ điều kiện mà trở về trả thù hoặc chuộc tội…

Trong nhà của Mạnh Thường Quân vì quá đông người nên ông đã tùy theo tài cán mà chia ra làm mấy hạng khách. Hạng nhất được trọng đãi đủ mọi điều kiện, kể cả sự đi hài cũng phải là thứ hài thêu ngọc.

Hạng nhì có cá thịt trong bữa ăn, mỗi khi đi ra đều có xe đưa đón, hạng ba chỉ có ăn cá thịt mà không có xe. Đến hạng tư thì cơm không có cá thịt chỉ có rau cỏ và đi đâu, cố nhiên cũng chẳng có xe.

Chỉ thức ăn mới chia ra mấy hạng chứ cơm thì tất cả đều ăn một nồi giống nhau, sử có chép một mẩu chuyện để nhấn mạnh sự kiện này. Chuyện rằng, một hôm có người đến xin làm thực khách tá túc, gặp trời tối nhá nhem, chẳng nhìn rõ, cho là có sự cách biệt về bát cơm không cùng một thứ gạo. Mạnh Thường Quân phải mang bát cơm mình đang ăn đưa ra so sánh với bát cơm của khách. Khách xấu hổ bỏ trốn ngay đêm ấy, cũng vì cái tiếng đồn bát cơm ấy mà thực khách càng kéo đến đông đảo hơn.

Một hôm khác, đặc biệt nhất, ảnh hưởng đến vận mệnh của họ Điền mà không ai biết. Đời chỉ cần có thế, mà chỉ những nhà giỏi khoa lý số mới biết, cũng hệt như hôm Văn Vương đi săn, trước khi đi, ông bói một quẻ, nói rằng hôm nay ra đường sẽ gặp một nhân vật “Phi hùng, phi bi, phi lân, phi ly nhi khả dĩ trợ nhữ vương thiên hạ”, và nhân vật đó là Lã Vọng, hai người chở thuyền đưa nhau về nói chuyện Lục Thao với nhau.

Trở lại với cái hôm đặc biệt ấy tại nhà họ Điền, có một người nghèo nàn xin vào làm thực khách. Được hỏi có biết làm gì không? Có tài cán gì không? Thưa không tài cán gì? Thế là được xếp vào hạng tư, không có hài thêu, cơm ăn không cá, thịt và đi đâu cũng chẳng có xe đưa đón.

Mấy hôm sau, mọi người đều nghe tiếng ca của vị thực khách mới vào mang tên Phùng Hoan:

Trường kiếm quy lai hề, thực vô ngư.
(Kiếm dài ơi, ta về đi thôi cơm ăn không có cá).

Mạnh Thường Quân nghe tiếng ca, hỏi của ai, người nhà bảo của tên thực khách mới vào được xếp hạng tư nên y coi bộ không hài lòng. Mạnh Thường Quân bảo xếp vào hạng ba. Ngày mai, tưởng Phùng Hoan đã chịu không ngờ ăn xong lại nghe ông vỗ kiếm ca:

Trường kiếm quy lai hề, xuất vô xa.
(Kiếm dài ơi ta về đi thôi, đi đâu không có xe).

Mạnh Thường Quân lại cho lên một bậc nữa, được vào hạng nhì. Người nhà tức lắm, cho rằng tên nầy không biết thân phận mình. Mọi người đều tưởng thế là yên, nhưng ngày mai tới vẫn nghe ông ăn xong lại vỗ kiếm.

Trường kiếm quy lai hề, vô dỉ vi gia.
(Kiếm dài ơi ta về đi thôi, chẳng có gì mang về).

Lần này thì mọi người đều bực mình nhưng Mạnh Thường Quân sau khi gọi lên hỏi thăm nghe bảo còn mẹ già ở nhà đang đói, ông lại cho mang thức ăn về mỗi ngày.

Một hôm khác, Mạnh Thường Quân cần người đi đòi nợ, hỏi các thực khách có ai chịu đi, mọi người đều không ai nhận lời chỉ có Phùng Hoan xin được đi để trả ân. Mạnh Thường Quân cho ông đủ các thứ xe cộ, cơm ăn đường, đưa danh sách con nợ và văn tự ra trao cho Phùng Hoan.

Trở lại đoạn trên, Phùng Hoan, trước khi đi đòi nợ đã hỏi Mạnh Thường Quân rằng muốn mua gì mang về, và như đã biết Mạnh Thường Quân trả lời xét xem trong nhà thiếu gì thì mua về.

Phùng Hoan vừa đến, cho người đi đánh mõ khua chiêng rao ầm lên rằng ai có nợ với Điền Văn thì mang giấy tờ đến sẽ được tha nợ. Mọi người mừng rỡ mang giấy nợ đến. Phùng Hoan cho chất lên một đống rồi châm lửa đốt sạch. Chỉ trong một thoáng đã hóa ra tro. Mọi người reo hò ca ngợi Mạnh Thường Quân không tiếc lời.

Chỉ có mấy hôm sau, thấy người thực khách trở về, lệ thường mỗi khi đi đòi nợ là phải cần đến hằng tháng mới có thể đòi được ít nhiều, lần này sao mà tài tình. Hỏi Phùng Hoan mua gì ở chợ mang về. Thực khách trả lời:

“Ngài bảo tôi xem trong nhà thiếu thứ gì thì mua. Tôi xét thấy trong nhà chẳng còn thiếu món gì chỉ có thiếu mỗi một thứ, đó là NGHĨA, nên tôi đã mang về cho ngài rất nhiều”.

Mạnh Thường Quân mới nghe chưa kịp hiểu, nhưng khi vỡ lẽ ra rồi thì ông chỉ yên lặng không nói năng gì tuy trong lòng rất tức giận. Thứ nhất là bị mất hết một số tiền rất lớn, thứ hai là bị một tên thực khách nghèo nàn dám chê rằng nhà mình thiếu Nghĩa, thứ ba là giận tím gan mà chẳng biết phải làm sao vì sợ tiếng lành đồn xa…

Mục đích bài này không phải để nói đến con người họ Điền mà ai cũng biết. Chúng ta vẫn dùng chữ Mạnh Thường Quân để ca ngợi một người nào có lòng tốt, hay giúp đỡ anh em. Ba chữ này đã trở thành một tính từ dành ca ngợi kẻ có lòng.

Chúng ta chỉ nói đến chữ NGHĨA, nhưng trước khi nói đến chữ Nghĩa, xin được nói qua về chữ Quả, chữ quả tức là ít, không nhiều. Sách Luận Ngữ còn định nghĩa chữ Quả là Lão vô nhi vô phu, đàn bà già mà không có ông chồng bên cạnh, để đối với chữ Quan là lão nhi vô thê, ông già mà không có vợ.

Ở đây chúng ta thấy Phùng Hoan đã dạy cho Mạnh Thường Quân một bài học, khi được hỏi gì thì phải trả lời rõ ràng, không bao giờ nên nói giọng lơ lửng đó, rất có thể bị xuyên tạc. Hẳn Phùng Hoan cũng để ý thấy Mạnh Thường Quân hay trả lời như thế, có vậy mới cho cơ hội mà đi mua Nghĩa cho nhà họ Điền.

Cố nhiên, Phùng Hoan không phải là không biết rõ về cái độ tốt của họ Điền đến đâu, và khi đã xin vào làm thực khách tức là cũng có ý nghĩ rằng có thể cứu vãn được, ông mới thèm vào.

NGHĨA là gì? Có nhiều lối giải thích dành cho chữ Nghĩa, thứ nhất là chữ Nghĩa đã được đặt vào trong Ngũ Thường tức là năm phép tắc để quy định nếp sống của con người nhất là cho người quân tử: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.

Nhân là lòng nhân, tức là sự đối xử với người, mà Nghĩa là Ta, là cái uy tín của ta, tự trong lòng ta, trong cách ăn ở, suy tư của ta mà phát ra. Sách Hiếu Kinh ghi rằng Hiếu là Kinh của trời và là Nghĩa của Đất.

Theo Thái Huyền Kinh, “Thi Ân là NGHĨA”, thi ân tức là cho, khi ta cho tức là ta làm Nghĩa. Chữ Nghĩa được viết ra theo lối Hội Ý, mang một giòng tư tưởng với chữ Thiện và Mỹ.

Một thí dụ khác để nói rõ hơn, thời xưa khi Vũ Vương hưng binh phạt Trụ. Bá Di cúi đầu xuống ngựa mà can rằng: “cha chết chưa chôn mà lo đánh nhau là bất hiếu, Thần giết Quân sao gọi là Nhân”.

Trong lúc ấy thì từ dân gian đến binh lính đều một lòng đòi tiến lên. Thái Công Vọng nói rằng: “Vũ Vương là người đã làm theo chữ NGHĨA”.

Về sau có thời người ta đổi chữ Nghĩa ra chữ Tín, và nghĩa sĩ gọi là Tín Sĩ.

Âm nhạc đặt NGHĨA vào cung Thương, cung của mùa thu.

Có người hỏi tại sao Phùng Hoan không bảo rằng thiếu Đức mà lại bảo thiếu Nghĩa, chữ Đức được phổ biến về sau nầy khi đạo Phật truyền vào Á Châu, ngày trước chữ Đức ít được dùng, vì thuở ấy người ta đặt vào chữ Đức một tầm quan trọng hơn, to tát hơn, gồm cả Nhân cả Nghĩa và cả Đạo.

Người ta còn chia ra Thiên Đức, Địa Đức, và Nhân Đức. Thiên Đức là cái Đức hóa dục vạn vật của Trời.

Địa Đức là cái Đức sinh sản bách vật, dưỡng dục nhân dân của Đất.

Nhân Đức là cúi nhìn địa lý, mà chế định độ lượng nhìn mực nước sông cao thấp để lập sự phòng ngừa tai ương, đói lạnh, khảo cái đức của người để chế lễ nhạc, thực hành đạo Nhân Nghĩa để trị cái luân thường cho con người, tránh cái họa của sự bộc loạn.

Xem thế thì đủ biết chữ Đức không thể dùng cho cá nhân dầu là một bậc Đế Vương.

Mải về sau mới có thuyết nói hẹp về chữ Đức, thi ân là Đức.

Trở về với hai nhân vật nước Tề, khi bảo Mạnh Thường Quân không vui lòng vì cái hành động mua Nghĩa của Phùng Hoan đó là đã chứng tỏ sự thiếu Nghĩa nơi con người ấy. Nuôi thực khách với mục đích rõ rệt như người nuôi binh lính chứ không phải vì lòng tốt.

Khi ông bị Tần Chiêu Vương muốn giết, chạy trốn về, đi ngang qua đất Tiết, nơi mà Phùng Hoan đã đốt giấy nợ, được dân chúng bồng bế trẻ cõng già, lớn bế nhỏ ra tận nơi địa đầu mà chào mừng hò reo, lúc ấy ông mới quay lại bảo với Phùng Hoan rằng: “Bây giờ tôi mới thấu rõ ý của Tướng Quân”.

Sự đổi giọng gọi Phùng Hoan bằng Tướng Quân cũng chứng tỏ một điểm thiếu Nghĩa.

Có người ca ngợi Mạnh Thường Quân, nhưng cũng có một số khác bảo rằng con người ấy chẳng có gì đáng đề cao, chỉ có bầu bạn với thứ giả tiếng chó, tiếng gà (Vì lúc trốn ra khỏi nước Tần, có người giả tiếng gà để lũ gà trong vùng bắt chước gáy theo, người gác quan ải ngỡ trời sắp sáng nên cho mở cửa quan sớm hơn, nhờ vậy Mạnh Thường Quân mới thoát. Một lần khác cần đánh cắp chiếc áo Hồ Cừu trong kho nhà vua để làm món quà tặng, có người phải giả tiếng chó để lũ chó canh kho lầm tưởng có con chó lạ lạc vào mải lo đi tìm, để cho kẻ có bổn phận vào kho đánh cắp áo có thể hoàn thành nhiệm vụ).

Mạnh Thường Quân đã được cái may mắn gặp Phùng Hoan, tuy không có mắt để nhìn người ngay từ lúc ban đầu nhưng đã chịu nhượng bộ cất ông lên đến cấp Nhì của hạng thực khách, lại chịu đựng bài học của Phùng Hoan cho, tức giận mà không đuổi đi, đó là một điểm đáng khen.

Sau khi tiền bạc, danh vị mất, thì bao nhiêu thực khách đã bỏ ra đi, đợi khi ông có danh vọng lại xin trở về. Lúc bấy giờ mới thấy ai “Tửu nhục bằng hữu” (bạn rượu thịt) và ai là người có thể trông cậy được.

Hẳn lúc này Mạnh Thường Quân mới thấy sự nhận định của Phùng Hoan là đúng, nhà ông có đủ tất cả mà chỉ thiếu Nghĩa.

Mạnh Thường Quân cũng như nước Tề không làm nên cơ nghiệp mà là nước Tần với sự đánh dẹp tàn khốc của Tần Thủy Hoàng để thống nhất nước Trung Hoa.

Một phần lớn của tất cả mọi sự thất bại đều do cái tệ không biết nhìn người của những kẻ có đủ phương tiện nắm quyền hành trong tay. Điểm quan trọng nhất của những ai muốn dựng sự nghiệp là biết đánh giá con người đúng mức, và đừng nghe những lời tâng bốc của kẻ được đi hài thêu.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 12:33 pm

Trí tuệ của lòng bao dung


Những chuyện xưa 200px-DaodeTianzun

Lão Tử, được miêu tả như là một vị thần Đạo giáo.

Bài viết của Trí Chân
[Minh Huệ 04-05-2010] Thánh hiền trong lịch sử các triều đại Trung Hoa rất coi trọng lòng bao dung. Có những ví dụ rất hay về lòng bao dung trong các tích cổ Phật gia, Đạo gia và Nho gia. Lão Tử nói rằng một người đức hạnh có thể hoàn thiện và dung hợp với “Đại Đạo” bởi vì khuôn mẫu của đức hạnh chính là “Đạo”. Lão Tử còn nói rằng nguyên do sông và biển mênh mông sâu thẳm là bởi chúng ở vị trí thấp nhất để tiếp nhận lấy nước từ từng nhánh sông khe suối nhỏ bé. Khổng Tử nói rằng, “Nếu bạn khoan dung từ thiện, bạn sẽ có được cảm tình của mọi người”. Có một câu trong “Thượng Thư” – một cuốn sách lịch sử cổ xưa – nói rằng “Biết dung nạp sẽ thành vĩ đại”.
Đại địa, đại sơn, đại giang, đại hải – những chữ “Đại” trong các từ ngữ trên diễn tả chiều sâu vô cùng và sự hòa hợp. Phật gia giảng: “Một niệm làm hoàn cảnh đổi thay”, “Thường có lòng biết ơn”, “Thiện giải và bao dung”, “Từ tâm luôn giữ trong lòng”. Để bao dung được vạn vật, người ta cần có tâm từ bi. Tâm càng rộng lớn thì càng bao dung được nhiều.
Bao dung là một đức tính. Khiêm tốn là một mặt của bao dung. Bởi tính cách khác nhau, người ta có những thế giới quan khác nhau và phán xét mọi việc theo những cách khác nhau. Thời xưa, các Thánh hiền luôn tôn trọng ý kiến của nhau. Họ nghĩ về người khác trước những khi họ gặp bất cứ việc gì, để lại những tấm gương đáng kính phục cho đời sau noi theo.
Lấy ví dụ thời Tây Chu, Chu Công khi phò tá Thành Vương đã cố gắng hết mình để làm cho đất nước được phồn vinh thịnh vượng. Khi ông ra sức kêu gọi hiền tài, rất nhiều người đã đáp lại tiếng gọi của ông. Ông bận rộn đến mức thậm chí không có thời gian để làm khô tóc sau khi gội đầu. Ông phải dừng bữa cơm tối mấy lần để khách không phải chờ lâu. Ông thường khuyên Bá Cầm con trai ông rằng: “Thành Vương muốn con trông coi Lỗ quốc, con phải khiêm tốn và biết trân trọng! Con phải biết luật Trời rằng bất cứ ai kiêu ngạo tự mãn sẽ mất hết và người khiêm nhường sẽ được lợi. Người ta ai cũng trân trọng đức tính khiêm nhường; không ai coi trọng tính kiêu căng ngạo mạn cả!”.
Lấy một ví dụ khác, như vua Thái Tông đời Đường đã từng tiếp thu lời khuyên bằng một thái độ khiêm tốn. Ông khuyến khích các bề tôi khuyên can và tiếp thu những lời khuyên ấy bằng sự khiêm nhường. Ông không thỏa mãn cho tới khi ông được nghe về những thiếu sót của mình. Ông tập hợp trí tuệ từ khắp nơi trong thiên hạ, giúp ông xây dựng thành công một “Thịnh thế Thiên triều” để cai quản một quốc gia giàu mạnh.
Lòng bao dung có thể giáo hóa và thuyết phục người ta, là một kiểu “quan tâm và chăm lo trìu mến”. Lấy ví dụ Dương Chứ thời nhà Minh. Một đêm ông nằm mơ thấy mình đang đi dạo quanh một khu vườn và ông bâng quơ hái hai quả mận trên cây. Sau khi tỉnh dậy, ông tự trách mình, “Là ta đã không thấu hiểu đạo nghĩa và tư lợi nên đã trộm lấy hai trái mận trong giấc mơ!”. Từ đó, ông chú tâm hơn tới việc rèn luyện tâm tính. Mỗi khi trời mưa, một người hàng xóm của ông lại thông nước bẩn trong sân sang sân nhà Dương Chứ. Khi người nhà Dương Chứ kể với ông về việc đó, ông chỉ nói với người nhà rằng: “Có nhiều ngày nắng hơn ngày mưa”. Khi người hàng xóm nghe được điều đó, anh ta rất cảm động bởi sự nhẫn nhịn của Dương Chứ.
Khi Dương Chứ làm Thượng thư bộ Lễ, ba thước đất của ông bị người hàng xóm lấy mất. Gia đình ông cãi nhau với người hàng xóm về việc này và mong Dương Chứ can thiệp, nhưng Dương Chứ chỉ cười và viết một bài thơ:
“Dư địa vô đa mạc giảo lượng,
Nhất điều phân thành lưỡng gia tường,
Phổ thiên chi hạ giai vương thổ,
Tái nhượng tam xích hựu hà phương”.
Tạm dịch:
Đất trống không nhiều chớ so đo ;
Đường kẻ chia đôi 2 tường nhà;
Đất trong thiên hạ Vua làm chủ;
Nhường người 3 thước có làm sao.
Thái độ khiêm nhường và nhã nhặn của Dương Chứ đã làm thay đổi suy nghĩ của người hàng xóm. Điều này khiến anh ta thôi không tranh chấp nữa và còn nhường ba thước đất của bản thân mình, để rồi tạo thành một con hẻm rộng sáu thước. Câu chuyện này được truyền tụng nhiều đời ở Trung Quốc đến tận ngày nay.
Lòng bao dung là một phương diện của cái thiện, mang người ta lại gần nhau hơn và cải thiện mối quan hệ giữa người với người. Tục ngữ có câu: “Người có đạo đức có thể gánh vác trọng trách”. Đó là bởi những người đó không ích kỷ và đáng tin cậy. Nói cách khác, chuẩn mực đạo đức càng cao, thì lòng bao dung càng lớn, và càng từ bi hơn. Con người với tiêu chuẩn đạo đức cao sẽ không bị ảnh hưởng bởi danh lợi và sẵn sàng giúp đỡ quan tâm tới người khác hơn, bởi họ từ bi và bao dung độ lượng hơn.

Những chuyện xưa 220px-Birth_of_Laozi

Lão Tử dị tướng ngay từ khi mới sinh ra
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 12:45 pm

Những chuyện xưa Tamgiao


[Chanhkien.org] Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

Lão Tử

“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói: “Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.

Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.

Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.câu này người viết: có thể chưa hiểu được lời nói "Thiên thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc tôn "

Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.

“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).

Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.

Tài liệu Tham khảo
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 3:22 pm

Ngày xuân luận bí quyết trường thọ của tiền nhân
Những chuyện xưa Image-thumb1390773951

Những bài học sống thọ của Hán Vũ Đế từ Khổng Tử

Vào thời Tây Hán (206 TCN-25) bên Trung Hoa, có tất cả 14 ông vủa thay nhau trị vì, với tuổi thọ bình quân chưa tới 38, nhưng riêng Hán Vũ Đế sống tới gần 80 tuổi. Được như thế là nhờ sự gợi ý của nhà văn Tư Mã Tương Như, Hán Vũ Đế đã học theo Khổng Tử về thuật dưỡng sinh để sống thọ.

Đầu tiên, Hán Vũ Đế tuân theo bài học ‘Ngũ bất tọa ngọa’, tức không ngồi, không nằm ở 5 nơi cấm kỵ, cụ thể:  ở nơi cửa gió lùa, huyệt mộ, nơi ẩm ướt, chỗ xú uế hôi thối và nơi nguy hiểm đe dọa tính mạng.



Đồng thời Hán Vũ Đế cũng thực hiện theo chỉ dẫn về ẩm thực của Khổng Tử với 9 nguyên tắc không được ăn: lương thực hư nát, thực phẩm không rõ nguồn gốc, thịt cá có biểu hiện ươn thối, thực phẩm có màu sắc bất thường, món ăn có mùi vị khó ngửi, thức ăn chưa được nấu chính đúng, chuẩn mực, thịt cắt không đúng cách, thức ăn có đồ gia vị không phù hợp và không ăn trước giờ ăn định sẵn hàng ngày.

Ngoài ra, Hán Vũ Đế cũng tuân thủ chặt chẽ về giấc ngủ theo chỉ dẫn của Khổng Tử, tránh tư thế được gọi là ‘tẩm bất thi’, tức nằm như xác chết: không nằm ngửa và thẳng 2 chân như thi thể mà phải nằm nghiêng, hơi co đầu gối. Bên cạnh đó, nhà vua còn thực hiện đúng phép ‘ngũ bất thụy’, tức 5 điều cấm kỵ khi ngủ: không quay đầu về hướng Bắc, không ngủ nơi lộ thiên, không để gió thổi vào đầu, không để đèn quá sáng và không để chân lạnh.

Phong Quân Đạt chỉ dẫn Tào Tháo ‘tứ giảm’

Ai mê truyện Tàu thời Tam Quốc cũng biết đến Tào Tháo (155-220), một gian hùng lừng danh. Thế nhưng khác với nhân vật tiểu thuyết, ngoài đời thực Tào Tháo là người anh hùng được tôn trọng. Ông là nhà chính trị, quân sự, nhà thơ tài ba và suốt đời chinh chiến trên lưng ngựa nên ông rất xem trọng thuật dưỡng sinh để giữ gìn thể trạng nhằm thích ứng trong mọi điều kiện chiến trường khốc liệt.
Những chuyện xưa Image-thumb1390774077


Trong một lần chỉ huy đại quân đi ngang vùng Thiểm Tây, Tào Tháo nghe tin có vị ẩn sĩ ở đây sống trên 100 tuổi, ông liền cho dừng ngựa và tìm đến. Ẩn sĩ đó là nhà dưỡng sinh học Phong Quân Đạt, tinh thông đạo học Lão Trang lại giỏi y thuật, thường cưỡi con thanh ngưu lang thang khắp thiên hạ để chữa bệnh cứu người, nên được gọi là Thanh Ngưu đạo sĩ.

Nhận thấy tướng quân Tào Tháo tìm đến nghiêng mình thực lòng xin học thuật dưỡng sinh, Phong Quân Đạt nói ngắn gọn: “Thể dục thường lao, thực dục thường thiểu, giảm tư lự, tổn hỉ nộ, thận phòng sự”.

Câu nói ấy có nghĩa là gì? “Thể dục thường lao” là phải thường xuyên vận động cơ thể bằng công việc hoặc tập thể dục đều đặn để lưu thông kinh mạch, nội lực tự sinh, tà khí bên ngoài không thâm nhập được vào cơ thể, thải mọi chất ứ thừa....

“Thực dục thường thiểu” là chỉ ăn uống khi có nhu cầu, không ăn quá no nhằm bảo vệ khí trong dạ dày. “Giảm tư lự” là hãy bớt âu lo muộn phiền để tránh lão hóa. “Tổn hỉ nộ” là không nên vui quá trớn, giận hờn quá độ vì nóng giận quá làm hại âm, vui sướng quá sẽ hại dương. Cuối cùng “thận phòng sự” tức là không được hao tinh khí quá nhiều trong sinh hoạt phòng the.

Từ những hiệu quả về sức khỏe thu được, Tào Tháo đã rút ra kinh nghiệm sống nói rằng: “Rùa sống lâu nhưng không thoát khỏi cái chết. Tuấn mã rồi cũng có lúc sợ ngàn dặm. Anh hùng dù tuổi cao nhưng tráng chí vẫn lên chính tầng mây. Sinh mệnh ngắn hay dài hoàn toàn không phải chỉ do thiên định”.

Và cũng nhờ thuật dưỡng sinh, dù nằm gai nếm mật trên thao trường, Tào Tháo đã sống đến 66 tuổi, một cái tuổi được xem là thượng thọ thời cổ đại.

4 ‘thần dược’ không cần dược liệu của thi hào Tô Đông Pha

Là một bậc thi hào thời Bắc Tống, Tô Đông Pha (1036-1101) được mệnh danh là ‘Đường Tông bát đại gia”, đồng thời là “Tống từ gia” kiệt xuất về thi pháp. Ông cũng là nhà ẩm thực nổi tiếng đã đề xướng ‘Tứ vị dưỡng sinh pháp” được xem là thuật dưỡng sinh rất hữu hiệu được người cùng thời áp dụng rộng rãi và truyền tụng lâu dài về sau.

Những chuyện xưa Image-thumb1390774150

‘Tứ vị” tức là 4 loại ‘thuốc’ quý nhưng không cần dùng đến dược liệu. Đầu tiên là ‘Vô sự dĩ đương quý’: người qua tuổi trung niên không nên nhiều quá vướng bận chuyện lo âu, buồn phiền để khỏi lao tâm lao lực mà phải sống thanh bần, vô vi, không đua tranh vào vòng danh lợi.

Lão Tử cho rằng, người nào thắng được chính mình thì đó là kẻ mạnh, còn Tô Đông Pha nhấn mạnh “thân tâm an nhiên” là phương thuốc thần diệu số một giúp cơ thể cường tráng.

Thứ hai là ‘Tảo tẩm dĩ đương quý’: người lớn tuổi không nên thức khuya làm việc nhiều bào ban đêm; đồng thời không nên ăn cơm chiều quá muộn, nên tranh thủ nghỉ ngơi, đi ngủ sớm.

Thứ ba là “An bộ dĩ đương xa”: phải thường xuyên vận động bằng cách đi bộ để lưu thông khí huyết. Nhưng đi bộ như thế nào cho tốt nhất thì theo Tô Đông Pha: “Bước đi thoải mái tự nhiên là sự kết hợp động – tĩnh hoàn hảo, giúp cơ thể hoạt động đều khắp, mạnh khỏe”.

Phương pháp cuối cùng là ‘Vãn thực dĩ đương nhục’, tức là khi đói mới ăn và không nên ăn quá no. Đồng thời thứ quý nhất không phải sơn hào hải vị mà chính là cơm gạo, rau quả đạm bạc ta gặp thường ngày.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 3:24 pm

Bí ẩn phong thủy của 'vùng đất các vương gia'

Cho đến nay ở Việt Nam chưa có ai sánh được danh tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ông giúp đỡ không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “thờ Phật ăn oản”, cho nhà Mạc chạy về “ẩn tại Cao Bằng”. Từ đâu mà Trạng Trình tiên đoán về thế sự và các vùng đất “ẩn long” hoặc sẽ “vạn đại dung thân” chính xác như thế?

Nhà tiên tri bên sông Tuyết Hàn

Có thể nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông. Về người mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục (con gái của quan thượng thư Nhữ Văn Lan) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử.

Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết duyên với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của tuổi 30 vẫn chưa lấy ai. Cuối cùng, bà quyết định tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết duyên, vì bà đã nhìn ra ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh ra một nhân tài

Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào động phòng hoa chúc. Nhưng ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn một chút bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nóng như thế chỉ sinh được người con đỗ Trạng, chứ không gây dựng nên nghiệp đế.

Những chuyện xưa Cs0411138

Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân.

Người con đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của Thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những tiên tri của ông được tập hợp với tựa: Trình Quốc công sấm ký…

Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học với Bảng nhãn Lương Đắc Bằng - một vị quan lớn thanh liêm, chính trực, từ khi thầy rời kinh đô Thăng Long về quê nhà Thanh Hóa mở trường dạy học, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo thầy về xứ Thanh. Thầy Lương Đắc Bằng nắm giữ bộ “Thái ất thần kinh” và đã truyền cho Nguyễn Bỉnh Khiêm yếu chỉ của bộ sách đó, cùng những ứng dụng trong lĩnh vực chiêm tinh và tiên đoán liên quan đến khoa địa lý và phong thủy.

Sau này, khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng Vua Mạc không chấp thuận, sau đó ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông Tuyết Hàn.

“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”

Về sau các vua Mạc, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn đều lần lượt phái sứ giả đến am Bạch Vân yết kiến Trạng Trình để xin cố vấn về các giải pháp trước mắt, hoặc tiên tri chỉ dẫn về những điều hệ trọng liên quan đến sự sống còn của họ trong tương lai.

Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng. Sau Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm lo sợ các con trai của Nguyễn Kim (là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy vậy Nguyễn Hoàng rất lo sợ, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị ám hại như anh mình (Nguyễn Uông).

Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí mật sai sứ giả tìm cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình dạy: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Vâng theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh xa “dao thớt” của người anh rể họ Trịnh.

Được Trịnh Kiểm đồng ý và Vua Lê cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa năm 34 tuổi (Mậu Ngọ 1558) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày nay.

Những thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, ổn định dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với Vua Lê, Chúa Trịnh ngoài Bắc, được Vua Lê sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định mọi việc ở vùng Thuận Hóa, hằng năm nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa.

Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam trong 56 năm (được truy tôn là Thái tổ Gia dụ hoàng đế), có 10 người con trai. Trước khi mất, Nguyễn Hoàng dặn lại con cháu phải hết sức giữ gìn đất Thuận Quảng vì đó là nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào “vùng đất vương gia” (tức kinh thành Phú Xuân- Huế sau này). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.

Theo các nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim thì “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh cao nhất của Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về “sơn lâm”.

Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ phong thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay.

Ngay các tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng xây kinh thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc đến “Hoành Sơn” thời khởi nghiệp.

Nhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co.

Nếu cơ nghiệp Chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “thủy” (nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “sơn” (núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “một vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi “một vòng mở ra” (nhất trùng khai) thì ở đó có đất  công hầu.

Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm” (nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại” (nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh. Trong tập “Địa lý gia truyền”, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp (chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao (chúng sơn đê tầm cao).

Đối chiếu và liên tưởng tới trường hợp “Hoành Sơn”, những chỉ dẫn phong thủy và địa lý nêu tổng quát ở trên cũng cho ta thấy qua phần “loan đầu” (có thể nhìn trực tiếp bằng mắt để đoán định), sau đó đến phần “lý khí” (liên quan đến lý học, thiên văn) chắc hẳn những gì nêu trong “Thái ất thần kinh” đã được vận dụng bởi nhà văn hóa, nhà tiên tri lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ vậy, cộng với khả năng thiên phú, Trạng Trình đã chỉ đúng con đường phải đi cho chúa Nguyễn.

BTV
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 3:29 pm

Văn hóa Thần truyền: Mạnh Tử không dễ bỏ cuộc

Bài của Trí Chân
[MINH HUỆ 27-5-2008] Mạnh Tử đề xuất quân tử cần phải “nhân ái với dân thương yêu muôn vật”, cho rằng mỗi cá nhân đều có đủ bản tính lương thiện và phẩm hạnh tốt đẹp, nếu như có thể giữ gìn lòng thiện và cố gắng nâng cao sự tu dưỡng của bản thân, thì như thế “mỗi người đều có thể như Nghiêu Thuấn”. Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
Mạnh Tử 2 lần tới nước Tề khuyên vua Tề thực hiện một nền chính trị nhân từ, nhưng không được chấp thuận. Khi Mạnh Tử rời khỏi nước Tề lần thứ 2, thì Doãn Sỹ người nước Tề nói với học trò Cao Tử của Mạnh Tử rằng: “Không biết rằng Tề vương không thể trở thành vị vua anh minh như Thương Thang Vương, Chu Vũ Vương, đó là không sáng suốt. Biết Tề vương không có năng lực, mà vẫn đến nước Tề, đó nhất định là để cầu lợi lộc. Đường xa ngàn dặm, tới gặp vua Tề nói không được bèn đi, nhưng nán lại ở 3 đêm mới rời khỏi nhà khách, vì sao trì hoãn lâu thế? Tôi rất không thích Mạnh Tử ở điểm này”. Cao Tử kể chuyện này với Mạnh Tử.
Mạnh Tử nói: “Doãn Sỹ sao biết được ta nghĩ gì? Ngàn dặm xa xôi tới nước Tề để trình bày đạo làm vua, đó là ta tự nguyện làm như thế. Khuyên can không được mà rời đi, không thấy đó cũng là ta tự nguyện hay sao? Ta là bất đắc dĩ đó thôi. Ta ở 3 đêm mới rời khỏi nhà khách, tại vì trong lòng ta cảm giác như thế quá vội vàng. Ta nghĩ thầm nếu Tề vương thay đổi thái độ và triệu mời ta quay lại, thì ta nhất định lợi dụng thật tốt cơ hội ấy. Đến khi ta rời khỏi nhà khách rồi, vua Tề vẫn không phái người đến, lúc đó ta mới dứt khoát ra đi. Ta mặc dù làm như thế, nhưng chẳng lẽ lại vứt bỏ vua Tề hay sao? Vua Tề vẫn hoàn toàn có thể làm việc chính sự tốt đẹp. Tề vương nếu làm việc thiện chính, đâu phải chỉ là nhân dân nước Tề được hưởng an bình, mà nhân dân khắp thiên hạ đều có thể được hưởng thanh bình. Vua Tề có lẽ sẽ thay đổi thái độ đó! Mỗi ngày ta đều luôn kỳ vọng ông ta sẽ thay đổi! Chẳng lẽ đó lại là phong thái hẹp hòi của phường tiểu nhân hay sao? Khuyên can vua không được thì nổi giận đùng đùng, vẻ mặt bất mãn, rồi khi rời đi cũng phải dốc hết sức lực chạy cho nhanh suốt một ngày, sau đó mới dừng nghỉ trọ chắc?”.
Doãn Sỹ nghe xong những lời ấy, nói: “Tôi thật sự là đồ tiểu nhân rồi”.
Mạnh Tử nghe nói vua Tề muốn dùng vũ lực để chinh phục thiên hạ, bèn tới nước Tề lần thứ 3. Đây là lần thứ 2 ông trình bày với vua Tề về đạo làm vua, cuối cùng khiến vua Tề hoàn toàn bái phục mà buông bỏ vũ lực để lựa chọn thi hành một nền chính trị nhân từ. Ông đã ngăn cản được họa chiến tranh suýt nữa phát sinh, giúp người dân được sống cảnh hòa bình, nước Tề được an ninh và trật tự.
Mạnh Tử chu du các nước, tuyên dương đạo đức và chủ trương thực thi nền nhân chính. Ông nói với học trò: “Nếu yêu quý người khác mà người khác không chịu gần gũi, thì đầu tiên phải tự hỏi mình, xem có phải lòng nhân ái của mình không đủ? Nếu như khuyên can người khác mà không thành công, thì cũng cần tự hỏi xem phải chăng trí tuệ của mình không đủ? Nếu đối đãi lễ phép với người ta nhưng không được hồi đáp tương xứng, thì cần tự hỏi lại mình, xem có phải ta không đủ chân thành? Khi việc làm của ta không được đối phương trả lời xứng đáng, thì chớ oán giận người ta, mà trước tiên nên tự hỏi, tự tìm xem nguyên nhân ở bản thân mình”.
Khi học trò hỏi Mạnh Tử làm sao có thể đúng mực, không sợ quyền quý. Mạnh Tử trả lời: “Họ ỷ giàu, ta có Nhân. Họ có tước, ta dùng Nghĩa. Việc gì phải khó chịu?”.
Mạnh Tử cho rằng, sự khác biệt của mọi người không phải là ở chỗ giàu sang hay nghèo hèn, mà ở chỗ có thể giữ gìn đạo đức cao thượng hay không, có thể “ngẩng mặt không thẹn với Trời, cúi đầu không hổ với người ta” hay không. Trở về với bản tính lương thiện trời cho, chúng ta mới có thể không bị mê hoặc bởi lợi ích vật chất. Những điều đó cần chúng ta phải có chí và kiên trì bền bỉ.
Đại Pháp của vũ trụ “Chân – Thiện – Nhẫn” hôm nay đã đến thế gian. Những người tỉnh thức đang thực hành và truyền bá chân lý, giảng rõ sự thật để thức tỉnh lương tri của người đời, để cho họ lựa chọn chính nghĩa và ủng hộ chân lý. Đó là yêu quý và có trách nhiệm với người khác!

Đăng ngày 06-06-2010; .
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 3:42 pm

Đức Khổng Tử bàn luận về tính tự phụ và đức hạnh

Bản in Bản in
Tác giả: Trịnh Niệm Hành



[Chanhkien.org] Một hôm, Tử Lộ (một môn đồ của Khổng Tử) ăn mặc chỉnh tề kèm theo đôi chút khoe khoang đến bái kiến Khổng Tử. Khổng Tử bèn nói: “Trọng Do (tên hiệu của Tử Lộ), nhà ngươi tự hào chi vậy? Khi dòng Trường Giang bắt nguồn từ ngọn Dân Sơn, dòng chảy của nó yếu đến nỗi nó chỉ có thể đấy được một chiếc thuyền mộc rỗng. Nhưng khi ra đến biển, nó mạnh như một trận cuồng phong và có thể làm lật cả một con thuyền mà cố băng qua nó. Đó chằng phải là vì nước chảy xuôi theo dòng ư? Bây giờ Trọng Do ăn mặc khoe khoang, tự cho mình là nhất, thiên hạ còn ai dám chỉ ra khuyết điểm của Trọng Do nữa?” Tử Lộ bước nhanh ra khỏi phòng và trở lại sau khi đã thay bộ trang phục bình thường. Khổng Tử nói: “Trọng Do, hãy nhớ rằng, người nói quá nhiều là người thiếu thực chất, người thích hiển thị bản sự thường hay khoác lác, và người thích thể hiện trí tuệ và năng lực hơn người đích thị là kẻ tiểu nhân.”

“Do vậy, người quân tử khi thuyết về đạo chỉ nói theo hiểu biết của họ, đó chính là mục đích của việc nói chuyện. Nếu họ không biết thì [họ] nói là không biết, đó chính là chuẩn tắc cơ bản nhất của việc hành xử. Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, ấy chính là biết vậy! Ai hành xử theo quy tắc này thì đúng là người nhân đức. Một người vừa có trí tuệ lại vừa nhân đức, người ấy còn bất mãn điều gì nữa đây?

Dịch từ:
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty22/3/2014, 3:51 pm

Bức thư của Diêm vương

Bản in Bản in
Tác giả: Cát Quang Vũ chỉnh lý



[Chanhkien.org] Ngày xưa có một lão nhân, sau khi chết đến gặp Diêm vương; ông trách Diêm vương không viết thư báo trước cái chết của ông, lại đột nhiên bắt ông chết, khiến ông không được chuẩn bị.

Diêm vương nói: “Khi mắt nhà ngươi mờ, là ta đã cấp bức thư đầu tiên cho ngươi; khi tai nhà ngươi lãng, là ta đã cấp bức thư thứ hai cho ngươi; khi răng nhà ngươi rụng, là ta đã cấp bức thư thứ ba cho ngươi. Thân thể ngươi ngày càng suy nhược, ngươi không biết ta đã viết bao nhiêu bức thư báo cho ngươi à? Có thể thấy ngươi không dụng tâm đọc, chấp mê bất ngộ. Giờ sao lại nói ta không viết bức thư nào cho ngươi?”

Lại có một thiếu niên, sau khi chết đến gặp Diêm vương, cũng trách móc Diêm vương, nói: “Mắt tôi còn sáng, tai tôi còn thính, răng tôi còn sắc: tóm lại, thân thể rất là cường tráng. Diêm vương gọi tôi đến, cớ sao không viết trước một bức thư báo cho tôi biết?”

Diêm vương đáp: “Ta đã từng viết thư cho ngươi rồi cơ mà! Ngươi không nhìn thấy hàng xóm phía Đông của ngươi, có người ba, bốn mươi tuổi đã chết; hàng xóm phía Tây của ngươi, có người mười, hai mươi tuổi đã chết; với lại, còn có đứa trẻ một tuổi hoặc con nít mới sinh đã chết; đây đều là ta viết thư cho ngươi đó!”

Kỳ thực, phàm là quanh mình phát sinh các chủng bất hạnh, thì đều là Thần đang nhắc nhở: lấy đó làm bài học; làm điều phi pháp, hành ác nhiều lần thì tự chuốc vạ vào thân, để từ đó khiến ta bỏ ác theo thiện. Phàm là quanh mình xuất hiện người tốt việc tốt, thì đều là Thần đang khuyến khích: phải học hỏi hướng thượng, lấy hiền làm thầy, lấy thiện làm vui, việc ở tại người!

Phật giảng: Sinh mệnh con người là vô thường, có tận sức tính toán thì cũng phải chết. Cũng giống như hạt sương buổi sớm, chỉ cần trút hết hơi thở là thân thể này đã trở thành cái xác không hồn rồi
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty24/3/2014, 10:00 am


Chẵng thà không biết thì thôi ! Biết rồi nhắm mắt ngồi ăn sao đành !
Lỡ ăn một miếng vào lòng ! Móc ra chẵng đặng ngàn năm cúi đầu !
Nói chi thêm tội người ơi ! Đẻ ra phải gắng mà nuôi !
Một mai quá vãng ! Người còn lưu danh !
Cuộc đời Như Mạnh Thường Quân !
3000 nhìn tân khách đãi đằng !
Đến khi bãi chức hết tiền còn ai ?
Hay gì ngồi thở với than !
Vui chơi cho hết cuộc đời mới vui !
Dạy con dạy cháu hiểu rằng !
Một lời đã hứa ! phải làm cho xong !
Còn một chút hơi cũng phải làm !
Đừng ngồi than thở phải chi đừng làm !
Phấn kia thoa mặt dại gì bôi than !


Được sửa bởi Admin ngày 27/8/2014, 11:15 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty24/3/2014, 3:52 pm



Mối hận của Khổng Tử
Phạm Lưu Vũ

Thiên hạ rộng lớn, vẫn có những con đường gọi là độc đạo. Vũ trụ mênh mông, vẫn để cho thánh nhân độc hành. Sướng một đời là kẻ tục nhân, hận nghìn thu là bậc cao sĩ. Thế mà gọi là tục nhân thì bị cho là mắng, gọi là cao sĩ thì lại bảo rằng khen. Có ai ngờ đạo lý lại sinh ra từ đạo tặc? Lừa một người thì khó, lừa cả thiên hạ xem chừng dễ như trở bàn tay. Việc gặp trên đường té ra không đến nỗi phải ôm hận, việc chứng kiến cả đời, té ra vẫn phải ôm hận nghìn thu. Vui đến tận cùng thì nét mặt hoảng hốt, buồn đến tận cùng thì thần thái tỉnh bơ. Ngu đến tận cùng lại chính là đang ở chỗ chân lý. Hiểu đến tận cùng lại chính là quay trở lại cái lúc ngu... Rốt cuộc thánh nhân cái gì cũng giống hệt mọi người, chỉ khác duy nhất chỗ tận cùng đó mà thôi. - Vẫn “Lời tựa” trong “Luận ngữ Tân thư”. Sau đây lại xin trích một phần của bộ sách đó:

Khổng Tử và các học trò trên đường sang nước Vệ, gặp một người đang cày ruộng, bèn sai học trò tới hỏi thăm đường. Người đi cày trỏ về phía Khổng Tử mà hỏi:
- Người đang ngồi kia là ai vậy?
Học trò đáp:
- Đó là thầy tôi.
Người đi cày bảo:
- Thiên hạ bây giờ lắm đạo, nhiều thầy. Trong nhà vừa mất trộm, ra ngõ gặp ngay một kẻ xưng là thầy thì còn gì chán hơn thế nữa. Ta hỏi thầy ngươi là ai mới được chứ?
Học trò đáp:
- Thầy tôi là Khổng Tử. Đạo của thầy tôi là đạo lý, không phải đạo tặc. Đạo ấy chẳng liên quan gì đến việc trộm cắp cả.
Người đi cày bảo:
- Thế tại sao cũng gọi là đạo? Chẳng phải cuộc đời bao giờ cũng chính là một vụ ăn cắp vĩ đại đó sao? Vì thế mới sinh ra đạo lý. Vậy mà bảo chẳng liên quan gì thì ai mà tin được. Cái ấy gọi là “đạo tặc khứ, đạo lý lai” (Đạo tặc vừa đi khỏi, đạo lý liền đến ngay). Hai thứ ấy cứ thay nhau trở qua trở lại mãi như thế. Khổng Tử thầy ngươi có phải là người đang tìm đường trở về cái chỗ ngu nhất hay không? Sao đến bây giờ mà vẫn còn mờ tối thế? Có mỗi một con đường (độc đạo). Lại có mỗi một người đi (độc hành). Thế mà còn phải hỏi!
Học trò trở lại thưa. Khổng Tử trầm ngâm một lát rồi than rằng:
- Đó là một bậc ẩn sĩ đấy. Dạy ta biết nghĩ là Cha, Mẹ. Dạy ta biết những điều ta nghĩ đã tới đạo hay chưa? chính là kẻ đi cày kia.
Thấy các học trò ngơ ngác có vẻ chưa hiểu. Khổng Tử nói tiếp:
- Chẳng phải các ngươi vì quá hăng hái nên lúc nào cũng sẵn sàng đi nhầm đường đó hay sao? Vì thế thỉnh thoảng mới cần phải dừng lại hỏi thăm. Giả sử hôm nay ta không nghe được những lời nói từ miệng người thợ cày kia thì có lẽ phải ôm hận không biết đến bao giờ.

Một hôm khác, Ngài cùng các học trò đi qua một làng nọ, gặp một bà mẹ đang ôm lấy anh con trai của mình mà gào khóc thảm thiết. Anh con trai mũ cao áo dài, hài vớ, cân đai nghiêm chỉnh, rõ ràng là một kẻ vừa học hành đỗ đạt, đang sắp sửa được bổ làm quan. Khổng Tử thấy vậy thì lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Con bà có phải là người vừa đỗ cao đó không? Tôi biết, bà cũng như nhiều người khác, thấy con mình thi đỗ thì mừng quá đến nỗi phải phát khóc lên đó thôi. Song cớ sao lại ra chiều thảm thiết như vậy?
Bà lão nâng vạt áo gạt nước mắt, cay đắng trả lời:
- Nào có gì mà mừng với rỡ. Tôi chẳng qua một chữ bẻ đôi cũng không biết, nên mới phải cho con theo đòi trường ốc đấy thôi. Ngài là bậc thánh nhân, chắc ngài chẳng lạ gì cái sự giáo dục bây giờ. Trong trường, người ta toàn nhồi nhét vào bụng học trò những điều bịp bợm, dối trá, nhằm biến chúng thành những kẻ u mê, không biết phân biệt đâu là thực, đâu là giả nữa. Kết quả những hạng gọi là có học bây giờ nom thì sáng sủa, nghiêm trang đấy, song một nửa chữ của đạo lý làm người cũng không hiểu, chỉ biết suốt đời chạy theo danh lợi, tận tụy phục vụ cho cường quyền, trung thành tuyệt đối với cường quyền... mà thôi. Dạy học như thế thì có khác gì lừa bịp? Biết con mình bị lừa mà không làm thế nào được, thì hỏi còn nỗi đau nào lớn hơn? Nay nó thi đỗ, nghĩa là cái sự lừa ấy đã thành tựu rồi. Vì thế tôi đang đau khổ đấy chứ. Đâu có mừng rỡ gì.
Khổng Tử lại hỏi:
- Bà là người không biết chữ, sao lại biết chắc rằng con mình bị lừa?
Bà lão trả lời:
- Đã là một người mẹ thì không cần phải đọc sách mới biết con mình thay đổi theo chiều hướng nào. Huống chi bây giờ đang là thời đại của dối trá, dối trá ngự trị từ trên cao xuống thấp, dối trá tràn lan từ công sở, chợ búa, đến học đường... Xưa nay học làm người cốt ở học Kinh, Sử. Thế mà Kinh thì tôi nghe con tôi đọc ra rả, chỉ thấy duy nhất một thứ kinh giả cầy ở đâu ấy, hình như những chỗ khác người ta bỏ từ lâu rồi. Sử thì chỉ thấy nhai đi nhai lại một mẩu bé tí tẹo đã được thổi phồng, được tô son trát phấn, trùm lên cả ngàn năm sử sách của Ông Cha. Ngay cả văn chương cũng chỉ thấy học vẹt những thứ văn một chiều, ngợi ca sự giả dối, tàn nhẫn... Giáo dục như thế chẳng phải lừa mị thì là cái gì? Thậm chí có khác nào ăn cắp linh hồn của người ta rồi nhét những thứ đểu giả của mình vào? Học như thế thì dẫu có đỗ cao đến mấy, thực chất cũng chỉ là một thứ dở người, tiểu nhân mà thôi, chẳng bao giờ sống nổi cho ra cái giống người! Rồi thì họ bảo sao nghe vậy, rồi thì chỉ biết tham lam, đớn hèn... Dẫu họ có ngồi trên đầu, trên cổ đến muôn năm cũng chẳng hề nhận ra, có khi còn phải biết ơn họ nữa là khác...
Khổng Tử bảo:
- Thì chính những kẻ đó, vì muốn giữ mãi địa vị đè đầu cưỡi cổ thiên hạ của mình đến muôn năm (nguyên văn: “vạn tuế”), cho nên mới đẻ ra cái nền giáo dục ấy. Nay bà có đồng ý để cho con trai bà đi theo tôi để học lại đạo lý làm người chăng? Có điều sẽ không thể làm quan được mà thôi.
Nói rồi Ngài quay lại bảo các học trò:
- Giả sử hôm nay ta không được chứng kiến câu chuyện này, thì chẳng bao giờ ta biết được cái sự lừa bịp trong giáo dục nó lại ghê gớm đến thế. Bây giờ ta mới hiểu hết được câu nói của người thợ cày ngày trước. Thì ra cuộc đời quả là một vụ ăn cắp vĩ đại. Người ta đã ăn cắp vào đến tận linh hồn của mỗi con người. May mà thiên hạ vẫn còn có những bà mẹ không biết chữ như bà mẹ đây. Nếu không thì chẳng biết đến đời nào ta mới rửa được mối hận này?
Bà lão nghe nói, bấy giờ mới tỏ vẻ mừng rỡ. Bèn vái Khổng Tử ba vái mà dắt tay người con lại, trao cho Khổng Tử. Người con đó sau này trở thành một học trò nổi tiếng giỏi về văn chương của Ngài. Chính là thầy Tử Hạ. Thầy họ Bốc, tên Thượng, người nước Vệ, nhỏ hơn Khổng Tử tới bốn mươi tư tuổi. Tử Hạ về sau quả nhiên suốt đời không làm quan, chỉ mở trường dạy đạo lý và thỉnh thoảng viết sách mà thôi. Câu chuyện trên chính là được rút ra từ trong sách của Thầy.

Lại một hôm khác, Khổng Tử cùng các học trò đi qua một bến đò. Thấy một người ngồi lủi thủi trên bờ, nét mặt buồn bã, đang ném những viên sỏi xuống dòng sông. Khổng Tử bèn tới gần hỏi:
- Có điều gì mà người buồn bã vậy?
Người kia không ngẩng mặt lên, chỉ buông một câu nhát gừng:
- Tôi đang cô đơn.
Khổng Tử bảo:
- Thời buổi đảo điên như thế này mà cô đơn thì cũng không có gì lạ. Song cô đơn mà còn biết buồn thì chẳng qua chỉ là cái cô đơn tạm thời, cô đơn trong chốc lát mà thôi. Cô đơn mà không còn biết buồn là gì nữa mới là sự cô đơn vĩnh cửu.
Nói xong dắt học trò đi thẳng. Duy có Nhan Hồi còn cố nán lại hỏi han, biên rõ tên họ, quê quán người ấy lại rồi mới đuổi theo thầy.

Mấy năm sau, thầy trò lại có dịp qua bến đò ấy. Nhớ lại chuyện xưa, Nhan Hồi lân la hỏi thăm thì được biết người kia quả đã tìm được bạn tri kỉ, không còn cô đơn nữa rồi. Họ Nhan phục quá, bèn hỏi Khổng Tử:
- Năm xưa, làm sao thầy biết kẻ ấy chẳng qua chỉ cô đơn tạm thời mà thôi?
Khổng Tử trả lời:
- Lòng người nghĩ mà chưa tới thì thôi. Một khi nghĩ mà đã tới thì có khác gì vũ trụ thu nhỏ (nguyên văn: “tâm đắc tiểu vũ trụ”). Khi ấy linh tính lúc nào cũng tràn ngập cả trời đất. Còn cảm thấy buồn nghĩa là vẫn có người tri kỉ ở đâu đó trong đời, có điều chưa đến lúc gặp đấy mà thôi. Nhưng cô đơn mà cảm thấy lòng mình lạnh tanh, không còn biết buồn là gì nữa, thì thế gian quả không còn ai là người tri kỉ nữa rồi. Như thế mà chỉ cô đơn đến trọn kiếp thì vẫn còn là may đấy. Việc này ta đã chứng kiến cả cuộc đời rồi.
Nhân chuyện ấy, có mấy câu truyền lại trong đời như sau:
“Thiên hạ thùy nhân tri kỉ? Hận nhất dạ.
Thiên hạ vô nhân tri kỉ! Hận thiên thu.”
(Còn hỏi được) thiên hạ ai là người tri kỉ? thì (chỉ) hận một đêm. (Khi đã biết) thiên hạ không còn người tri kỉ nữa thì hận đến nghìn thu).

Đời sau có người hỏi: Vậy Khổng Tử có phải là người cô đơn không? Nếu là người cô đơn, thì cô đơn như thế nào?
Khổng Tử đúng là người cô đơn. Không những thế, đó là người cô đơn vĩnh cửu. Hiểu được lòng mình chỉ có thể là người tri kỉ. Song trên đời đã không có ai là kẻ như thế, thì mong gì có ở những đời sau. Vì thế rốt cuộc, Ngài vẫn phải ôm hận nghìn thu.

nguyenhuuduong

Tổng số bài gửi: 1151
Join date: 12/08/2012

Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Về Đầu Trang Go down


Được sửa bởi Admin ngày 27/8/2014, 11:14 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Nguồn gốc của Tết Đoan Ngọ   Những chuyện xưa Empty25/3/2014, 12:15 pm

 KHUẤT-NGUYÊN BỊ ĐUỔI.
Những chuyện xưa I_icon_minipost  nguyenhuuduong Today at 11:58 am


Những chuyện xưa GOqc4WxTCYPNcLmUWdkJKA
[color]



KHUẤT-NGUYÊN BỊ ĐUỔI.
Ông Khuất-nguyên làm quan bị đuổi, ra chơi bờ sông, buồn-rầu, tiều-tụy. Lão chài hỏi sao ông đến nỗi bị đuổi? Ông nói: « Đời đục cả, một mình trong, đời say cả một mình tỉnh, bởi đó mà bị đuổi. » Lão chài cười mà trả lời rằng: « Đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm nước. Đời say cả, sao ông không uống cả men, húp cả dấm, cho đục cho say một thể, việc dì lo xa, để bị đuổi. » Ông lắc đầu mà bảo rằng: « Ta không thế được, vật trắng không bao giờ để dây bụi, thân ta trong-sạch không thể để dơ-bẩn dính vào được. » Lão chài cười mà quay thuyền đi.



[/color]
Những chuyện xưa Images?q=tbn:ANd9GcQs6o5wlP67HzZA27ZQb66rEMCU9yhAmmo4UqlUD94J3m0qcTUj


nguyenhuuduong
Tổng số bài gửi: 1063
Join date: 12/08/2012

Những chuyện xưa I_icon_profile Những chuyện xưa I_icon_pm


Những chuyện xưa I_up_arrow Những chuyện xưa I_down_arrow






  • Những chuyện xưa I_icon_quote
  • Những chuyện xưa I_icon_edit
  • Những chuyện xưa I_icon_delete




Những chuyện xưa Empty Nguồn gốc của Tết Đoan Ngọ
Những chuyện xưa I_icon_minipost  nguyenhuuduong Today at 12:07 pm

[size=16]Tính cách
Ông là người tính tình luôn thay đổi một cách kỳ dị thể hiện qua các trang viết của ông: vừa vui đã buồn, vừa cười đã khóc. Vừa muốn đi xa lại đổi ý. Đòi lên chầu Thượng Đế lại muốn trở về cố hương, rồi lại muốn tự tử. Tình cảm của ông biểu hiện một cách trung thực: mỗi chữ là một tiếng thở dài lâm ly, một giọt nước mắt não ruột. Ít có một văn nhân nào đau khổ, thác loạn đến thế. Trong lời đối thoại với ông lão đánh cá cũng chính là cách để thể hiện tâm sự của ông, Khuất Nguyên đã nói với ông lão đánh cá: “Cả đời đục cả, một mình ta trong; mọi người say cả, một mình ta tỉnh; bởi vậy nên ta phải bị bãi chức”.
Ông không chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được: "Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để vấy phải bụi dơ”.
Nguồn gốc của Tết Đoan Ngọ

Bài chi tiết: Tết Đoan Ngọ
Truyền thuyết Khuất Nguyên: Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông là vị trung thần nước Sở và còn là nhà thơ, nhà văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc. Tương truyền ông là tác giả hai bài thơ Ly Tao và Sở từ, nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với hoạ mất nước. Do can ngăn vua Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Dân làng ở đó đã mang những thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho cá và các linh hồn của ma quỷ không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tỏ rõ sự tiếc thương một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.

[/size]
Những chuyện xưa Qu+Yuan+1+-+dashuhua+com+%2528cropped%2529




nguyenhuuduong
Tổng số bài gửi: 1063
Join date: 12/08/2012

Những chuyện xưa I_icon_profile Những chuyện xưa I_icon_pm


Những chuyện xưa I_up_arrow Những chuyện xưa I_down_arrow
Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 842
Join date : 23/02/2014

Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty26/10/2016, 5:25 pm

Về Đầu Trang Go down
https://quochochue6774.forumvi.com
Sponsored content





Những chuyện xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Những chuyện xưa   Những chuyện xưa Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Những chuyện xưa
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next
 Similar topics
-
» — ĐẨY PHẢI ĐỔ
» tranh của Họa sĩ Koukei Kojima (Japanese) Phung Tran chuyển
» THAY CHUYEN MON GIAI NGHIEP

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Trang Lưu Trữ Hình Ảnh :: NỀN TẢNG GẮN KẾT :: NỀN TẢNG GẮN KẾT-
Chuyển đến